- Tin tức - Sự kiện
- Nghiên cứu-Trao đổi
Đề xuất giải pháp nhằm duy trì mức sinh thay thế trên cả nước
Mức sinh của Việt Nam thuộc nhóm thấp trong khu vực Đông Nam Á
Theo Tổng cục Thống kê, từ năm 2019 đến 2024, dân số Việt Nam mỗi năm tăng gần 1 triệu người - tốc độ tăng trung bình chỉ 0,99%, giảm so với mức 1,22% giai đoạn 2014 - 2019. Đặc biệt trong 2 năm 2023 - 2024, tỷ lệ sinh có dấu hiệu giảm nhanh. Năm 2023, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam là 1,96 con/phụ nữ. Năm 2024, con số này tiếp tục giảm, ở mức thấp nhất từ trước đến nay là 1,91 con/phụ nữ.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, với mức sinh chỉ đạt 1,91 con/phụ nữ, Việt Nam thuộc nhóm 5 nước có mức sinh thấp nhất khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, so với mức trung bình khu vực (2,0 con/phụ nữ), Việt Nam chỉ cao hơn Brunei (1,8 con/phụ nữ), Malaysia (1,6 con/phụ nữ), Thái Lan và Singapore (1,0 con/phụ nữ).
Theo các chuyên gia, mức sinh xuống thấp để lại nhiều hệ lụy cho sự phát triển bền vững của đất nước. Ảnh minh họa.
Phân tích về thực trạng mức sinh tại Việt Nam, TS Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế) cho biết, trong hai thập kỷ qua, tại Việt Nam, mức sinh khu vực thành thị đã xuống dưới mức sinh thay thế, dao động quanh 1,7-1,8 con/phụ nữ. Mức sinh khu vực nông thôn luôn cao hơn mức sinh thay thế, ở mức 2,2-2,3 con/phụ nữ. Năm 2023, mức sinh khu vực nông thôn giảm xuống còn 2,07 con, dưới mức sinh thay thế, mức thấp nhất từ trước đến nay.
Theo TS Phạm Vũ Hoàng, 2/6 vùng kinh tế - xã hội (Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ) có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế. Trong khi đó, 3/6 vùng có mức sinh cao trên mức sinh thay thế là ở Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên. Chênh lệch giữa mức sinh vùng cao nhất (Trung du và miền núi phía Bắc) và vùng thấp nhất (Đông Nam Bộ) là 0,85 con/phụ nữ.
Phó Cục trưởng Phạm Vũ Hoàng cho biết thêm, tuổi kết hôn trung bình lần đầu thay đổi theo hướng kết hôn muộn hơn. Đáng chú ý, tuổi kết hôn trung bình lần đầu cao nhất ở 2 vùng có mức sinh thấp nhất - nhì cả nước là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo dự báo của ngành Dân số, có 3 giả thiết về mức sinh của Việt Nam trong thời gian tới. Một là, giả thiết về mức sinh thấp: Mức sinh chung của cả nước giai đoạn 2019 - 2069 sẽ bắt đầu từ 2,09 con/phụ nữ năm 2019 và giảm dần ở những năm sau. Đến cuối thời kỳ dự báo, năm 2069, mức sinh của Việt Nam sẽ đạt 1,85 con/phụ nữ.
Hai là, giả thiết về mức sinh trung bình: Mức sinh chung của cả nước giai đoạn 2019 - 2069 sẽ giảm chậm hơn, cố gắng đạt mục tiêu duy trì mức sinh thay thế. Dự đoán đến cuối thời kỳ dự báo, mức sinh của Việt Nam sẽ đạt 2,01 con/phụ nữ.
Ba là, giả thiết về mức sinh cao: Mức sinh chung của cả nước giai đoạn 2019 - 2069 sẽ giữ ổn định, các chính sách về dân số và phát triển thực hiện thành công và đạt mức sinh thay thế (TFR=2,1 con/phụ nữ) vào cuối thời kỳ dự báo.
Trong trường hợp mức sinh giảm mạnh như giả thiết mức sinh thấp thì sau năm 2054, dân số Việt Nam sẽ bắt đầu tăng trưởng âm và mức giảm dân số ngày càng lớn. Các chuyên gia nhận định, nếu mức sinh giảm thấp và kéo dài sẽ tác động trực tiếp, sâu sắc tới quy mô dân số, cơ cấu dân số và để lại nhiều hệ lụy như thiếu hụt lực lượng lao động, già hóa dân số nhanh và suy giảm quy mô dân số… tác động lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Hệ lụy nghiêm trọng khi mức sinh tiếp tục giảm
Theo GS.TS Nguyễn Thiện Nhân, Đại biểu Quốc hội khóa XV, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, tính đến tháng 12/2023, thế giới có 42 nước thu nhập cao. Các nước này có quy luật chung là càng giàu, GDP/người càng tăng thì tổng tỷ suất sinh càng giảm. Trong đó, 38/42 nước có tổng tỷ suất sinh dưới 2,0 vào năm 2023, 4 nước còn lại có tổng tỷ suất sinh lớn hơn 2,0, song tổng tỷ suất sinh đều giảm dần liên tục, năm sau thấp hơn năm trước.
Do đó, GS.TS Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, nếu không có sự thay đổi đột phá về chính sách kinh tế, xã hội và chính sách dân số, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm sâu.
Nhấn mạnh về hệ lụy của mức sinh thấp, PGS.TS Nguyễn Đức Vinh, Viện trưởng Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cảnh báo, khi mức sinh đã giảm thấp thì rất khó quay trở lại mức sinh thay thế. Theo đó, trong giai đoạn 2000 - 2015, thế giới có 32 quốc gia có tổng tỷ suất sinh gia tăng nhẹ khi đang ở dưới mức thay thế, nhưng không trường hợp nào quay trở về mức thay thế hoặc cao hơn.
Theo PGS.TS Nguyễn Đức Vinh, qua các nghiên cứu và khảo sát cho thấy, mong muốn có 2 con đang phổ biến trong xã hội nhưng không bền vững bởi các yếu tố cản trở sinh đẻ đang dần chiếm ưu thế trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, thể hiện rõ nhất ở những vùng, tỉnh/thành có mức sinh thấp. Chi phí và mất mát cho sinh đẻ và nuôi dạy đủ 2 con dần gia tăng vượt quá khả năng của nhiều gia đình trong bối cảnh nhu cầu nâng cao mức sống cũng như giá trị cá nhân ngày càng được chú trọng.
Theo Viện trưởng Viện Xã hội học, nếu không có chính sách khuyến sinh kịp thời và phù hợp, Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn mức sinh sẽ giảm sâu dưới mức thay thế và quy mô gia đình dưới 2 con sẽ trở nên phổ biến, chuẩn mực gia đình 2 con sẽ dần thay thế bằng mô hình gia đình 1 con hoặc không con.
Để làm được điều này, theo PGS.TS Nguyễn Đức Vinh, cần đẩy mạnh truyền thông vận động về quy mô gia đình 2 con đến mọi địa bàn và nhóm xã hội, cả ở nơi đang có mức sinh cao, mức sinh thấp hay mức sinh thay thế. Đặc biệt, ở những nơi có mức sinh thấp, cần có các chính sách phúc lợi xã hội hỗ trợ chi phí cho người sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Điều này sẽ mang lại hiệu quả nhất định khi mà đa số người dân vẫn muốn có 2 con.
Đồng quan điểm trên, GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, để việc khuyến sinh ở những nơi mức sinh thấp được bền vững, cần có những biện pháp hỗ trợ các gia đình nhằm giảm nhẹ chi phí nuôi dạy con. Có nhiều hình thức chia sẻ chi phí này như: Trợ cấp sinh con, miễn học phí từ bậc mầm non đến hết THPT; miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân; miễn/giảm đóng góp trong cộng đồng dân cư; chính sách hỗ trợ về nhà ở... Bên cạnh đó, phát triển hệ thống dịch vụ gia đình, trẻ em như: Hệ thống nhà trẻ, giáo dục, vui chơi, giải trí; hỗ trợ kinh phí cho các cặp vợ chồng điều trị vô sinh, hiếm muộn…
Đặc biệt, theo các chuyên gia, mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên cả nước và các quan điểm, giải pháp cơ bản cần được thể chế hóa và đưa vào văn bản quy phạm pháp luật (như Luật Dân số) và lồng ghép vào các chiến lược, chương trình của Chính phủ và các ban ngành.
Giải pháp để mức sinh không tụt thấp khiến dân số Việt Nam tăng trưởng âm
Sau Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, nhiều cử tri đã kiến nghị, hiện nay, có những thay đổi khác biệt về các vấn đề kinh tế - xã hội, dân số cần pháp luật điều chỉnh để giải quyết toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số, bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Do đó, cử tri đề nghị nghiên cứu tham mưu Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Dân số năm 2003 và Pháp lệnh Dân số sửa đổi, bổ sung năm 2008 theo hướng nâng lên thành Luật Dân số.
Đến thời điểm này, Bộ Y tế đã hoàn thiện nội dung hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Dân số và có tờ trình gửi Chính phủ về việc đề nghị xây dựng Luật Dân số. Theo đó, Dự thảo Luật Dân số tập trung vào ba nhóm chính sách: Duy trì mức sinh thay thế; Giảm thiểu mất cân bằng giới tính và Nâng cao chất lượng dân số.
Đối với chính sách duy trì mức sinh thay thế, dự thảo Luật Dân số dự kiến quy định: Cặp vợ chồng và cá nhân có quyền quyết định bình đẳng, tự nguyện trong việc sinh con, thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh phù hợp với lứa tuổi, tình trạng sức khỏe, điều kiện học tập, lao động, công tác, thu nhập và nuôi dạy con của cá nhân, cặp vợ chồng.
Đề xuất cho phép lao động nữ khi sinh con thứ 2 được kéo dài thời gian nghỉ thai sản từ 6 tháng lên 7 tháng; cho phép phụ nữ sinh đủ 2 con ở các khu công nghiệp, khu chế xuất và các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của Chính phủ.
Bên cạnh đó, một số biện pháp khác nhằm duy trì mức sinh thay thế như: Định kỳ Chính phủ công bố tình trạng mức sinh để chính quyền địa phương xây dựng, thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp; Lồng ghép các nội dung về duy trì mức sinh thay thế trong xây dựng, triển khai thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; Tuyên truyền vận động, truyền thông, giáo dục thay đổi hành vi để thực hiện các biện pháp duy trì mức sinh thay thế.
Trên thực tế, thời gian gần đây, nhiều chính sách cũng đang được chỉnh sửa để khuyến khích người dân sinh thêm con. Mới đây nhất, từ ngày 20/3/2025, Bộ Chính trị yêu cầu không kỷ luật đảng viên sinh con thứ 3. Quy định này cùng hàng loạt thay đổi về chính sách dân số nhằm thúc đẩy mức sinh được nhiều chuyên gia dân số nhìn nhận là chủ trương đúng đắn, phù hợp, có cơ sở thực tiễn trong nước và kinh nghiệm quốc tế. Đây được coi là bước chuyển có tính linh hoạt, nhân văn và kịp thời, trong bối cảnh Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn về dân số.
MAI THÙY

