- Tin tức - Sự kiện
- Nghiên cứu-Trao đổi
Di cư nội địa ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long
1. Bối cảnh nghiên cứu
Kể từ khi thực hiện chính sách Đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng và phát triển kinh tế, đưa đất nước từ một nước nghèo thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm 2009. Tuy nhiên, giai đoạn phát triển kinh tế tiếp theo đòi hỏi phải cải cách sâu hơn trong phân bổ nguồn lực trong nước. Phát triển kinh tế không chỉ bao gồm trao đổi hàng hóa và dịch vụ hiệu quả mà còn là tính di động của người dân, hay còn gọi là di cư. Trên con đường phát triển đó, công nghiệp hóa, đô thị hóa, đói nghèo và những thay đổi về nhân khẩu học đặt ra những thách thức lớn đối với việc quản lý di cư trong nước. Trong ngắn hạn, di cư trong nước giúp phân bổ lao động hiệu quả hơn, có lợi cho tăng trưởng, nhưng về lâu dài, di cư tự do có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống của người di cư, làm gia tăng khoảng cách giữa người di cư và cư dân thường trú. Điều này liên quan đến năng lực hạn chế của Nhà nước, hệ thống đăng ký hộ khẩu lạc hậu và sự thiếu chuẩn bị của chính quyền địa phương trong việc giải quyết vấn đề di cư trong nước.
Ảnh minh họa
Một số vùng ở Việt Nam đã có sự di chuyển lớn của người dân, đáng chú ý đó là đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Là hai vùng đồng bằng lớn nhất của đất nước nhưng ĐBSCL lại có luồng di cư thuần âm trong khi ĐBSH có luồng di cư thuần dương. Hai vùng cũng khác nhau về điều kiện kinh tế- xã hội, trong đó ĐBSCL có mức độ công nghiệp hóa chưa cao, ngành kinh tế chính là ngành nông nghiệp - thủy sản. Mặt khác, ĐBSH có mật độ dân số đông và công nghiệp hóa cao, thu hút lượng lớn FDI và số lượng lớn các doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh. Những điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau dẫn đến các yếu tố kéo và đẩy di cư khác nhau ở hai vùng. Hiểu rõ hơn về điều kiện sống và làm việc của người di cư giúp chính quyền địa phương có cái nhìn sâu sắc hơn về sự chuẩn bị để quản lý hiệu quả di cư và đảm bảo rằng người di cư không bị bỏ lại phía sau.
Trong giai đoạn 2018 - 2022, ĐBSCL liên tục có luồng di cư ra, trong khi vùng ĐBSH liên tục có luồng di cư vào (Tổng cục Thống kê, 2023). Trong số các tỉnh thuộc hai vùng này, Sóc Trăng, Cà Mau, Trà Vinh và An Giang có dòng người xuất cư lớn nhất, còn Bắc Ninh là địa phương tiếp nhận người nhập cư cao nhất cả nước vào năm 2022. Theo Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình do Tổng cục Thống kê thực hiện năm 2021, di cư thành thị - thành thị chiếm phần lớn trong tổng số di cư trong nước, 33,8%, tiếp theo là nông thôn - nông thôn, 32,5% và di cư nông thôn - thành thị, 24,6%. Phần lớn người di cư đều ở độ tuổi trẻ, trong đó nhóm di cư năng động nhất là 20 - 24 tuổi, sau đó là 25 - 29 tuổi và 15 - 19 tuổi. Các yếu tố chính thúc đẩy di cư là lý do kinh tế, đoàn tụ gia đình, giáo dục và môi trường sống, điều này cũng phù hợp với các phát hiện từ khảo sát Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam(PAPI) năm 2022 và 2023. Khảo sát PAPI trong giai đoạn 2020 - 2022 cho thấy sự chênh lệch giữa đánh giá của người di cư và cư dân thường trú về hành chính công và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Từ năm 2020, khảo sát PAPI đã quan tâm đến người di cư (cả ngắn hạn và dài hạn) và thu thập ý kiến liên quan yếu tố thúcđẩy di cư, nhận thức và trải nghiệm của họ về chất lượng hành chính công và cung cấp dịch vụ công tại 12 tỉnh có dòng người di cư thuần dương. Trong số đó, Hà Nội và Bắc Ninh nằm ở Đồng bằng sông Hồng, Long An và Cần Thơ nằm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các cuộc khảo sát của PAPI có dữ liệu từ các tỉnh tiếp nhận người nhập cư, do đó thiếu thông tin chi tiết hơn từ các tỉnh quê hương của người di cư, có thể thiếu vắng yếu tố đẩy 1 di cư. Di cư là một vấn đề đa chiều đòi hỏi phải xem xét nó từ nhiều góc độ và các bên liên quan khác nhau, cả từ người dân và cán bộ công chức. Bên cạnh các yếu tố công nghiệp hóa, đô thị hóa, đói nghèo và thay đổi nhân khẩu học đã đề cập ở trên, các yếu tố quyết định di cư có thể đến từ các hiện tượng gần đây về lối sống và biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở ĐBSCL. Do đó, việc tiến hành một nghiên cứu sâu hơn về động lực di cư, công việc, đời sống và tiếp cận dịch vụ công ở vùng ĐBSCL và ĐBSH vừa mang tính thời sự vừa cung cấp dẫn chứng giúp xây dựng chính sách thích ứng với di cư, bình đẳng giữa người thường trú và tạm trú ở hai vùng đồng bằng.
Mục tiêu chung của nghiên cứu này là xem người di cư đã được đối xử bình đẳng, được công nhận, bảo vệ và hòa nhập. Cụ thể, nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về tình trạng của người di cư ở các vùng ĐBSCL và ĐBSCL từ góc nhìn của các bên liên quan. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực nghiệm, báo cáo đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm thực hiện quyền được công nhận, bảo vệ và sự hòa nhập của người di cư.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam góp phần thúc đẩy tạo việc làm và nâng cao chất lượng dịch vụ đô thị ngày càng cao. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không đồng đều theo không gian, hình thành những vùng công nghiệp hóa, vùng đô thị và các vùng nông nghiệp-nông thôn với trình độ phát triển khác biệt. Các vùng công nghiệp hóa và đô thị hóa có sức hút di cư mạnh mẽ, trong khi vùng nông nghiệp nông thôn chứa đựng những yếu tố thúc đẩy di cư.
Những năm gần đây, đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) trở thành một trong các trung tâm công nghiệp và đô thị thu hút lượng lớn người di cư đến, với tỷ suất di cư thuần dương; trong khi đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng có tỷ suất di cư thuần âm. Sự khác biệt về những yếu tố “kéo” và “đẩy” di cư giữa hai vùng dẫn tới các luồng di cư khác, công việc, cuộc sống, tiếp cận dịch vụ công và vấn đề quản lý di cư cũng khác biệt. Vì vậy, nghiên cứu “Di cư nội địa ở Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long: Vấn đề hiện nay và hàm ý chính sách” nhằm hiểu sâu ba chiều cạnh liên quan đến di cư nội địa ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long: (i) những động lực thúc đẩy di cư nội địa; (ii) những thách thức người di cư gặp phải trong đời sống, tiếp cận dịch vụ công và an sinh xã hội; và (iii) những cơ hội để đảm bảo quyền được công nhận, bảo vệ và hòa nhập của người di cư. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính sách thúc đẩy việc thực hiện các quyền được công nhận, bảo vệ và hòa nhập cộng đồng của người di cư ở nơi đến. Trong bối cảnh Luật Cư trú năm 2020 và Cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia vừa có hiệu lực và đưa vào thực tế, nghiên cứu này cung cấp dẫn chứng mang tính thời sự giúp xây dựng chính sách thúc đẩy các quyền bình đẳng cho người di cư không chỉ ở hai vùng ĐBSH và ĐBSCL mà còn trên cả nước.
Trong quá trình tổng quan tài liệu cho nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy các nghiên cứu trước đây có chỉ ra sự bất bình đẳng giữa người di cư và người thường trú, nhưng chưa phân tích sâu về sự bất bình đẳng trong cuộc sống, tiếp cận dịch vụ công, an sinh xã hội giữa người di cư và người thường trú, đặc biệt là ở hai vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam là ĐBSH và ĐBSCL. Do đó, có một khoảng trống về dẫn chứng giúp các nhà hoạch định chính sách và thực tiễn kịp thời tham mưu và ban hành những chính sách phù hợp nhằm giải quyết những khó khăn mà người di cư nội địa phải đối mặt ở nơi đến. Nghiên cứu này vận dụng phương pháp phân tích ý kiến của các bên liên quan liên quan nhằm bổ sung cho những hiểu biết hiện nay về thực trạng thực hiện các quyền được công nhận, bảo vệ và hòa nhập của người di cư nội địa và làm thế nào để bảo đảm các quyền của người di cư nội địa ở Việt Nam.
Nhóm nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn 67 cán bộ, công chức thuộc các Sở/Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐTBXH), Ủy ban nhân dân xã/phường, Công an xã/phường ở 9 tỉnh, thành phố, trong đó có bốn địa phương ở ĐBSH (gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương và Nam Định), bốn địa phương ở ĐBSCL (gồm Cần Thơ, Long An, An Giang và Sóc Trăng), và một tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ là Bình Dương nơi tiếp nhận nhiều người di cư từ vùng ĐBSCL. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn 96 người di cư ngoại tỉnh và 5 gia đình có người di cư; và thực hiện 16 thảo luận nhóm với người di cư ngoại tỉnh. Nội dung phỏng vấn và thảo luận nhóm với người di cư tập trung vào các lý do và quá trình di cư, đăng ký, việc làm, cuộc sống, tiếp cận dịch vụ công, hòa nhập cộng đồng, và chiến lược di cư. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng phân tích số liệu thống kê một số biến kinh tế-xã hội, luồng di cư ở hai vùng đồng bằng để hiểu rõ hơn địa bàn nghiên cứu và các yếu tố “kéo-đẩy” di cư.
2. Những phát hiện chính
• Di cư ở ĐBSH chịu nhiều tác động của các yếu tố “kéo” còn ở ĐBSCL chịu nhiều tác động của các yếu tố “đẩy” ở các phương diện kinh tế-xã hội. Người di cư chưa nhận rõ biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp của di cư.
• Di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn là luồng di cư chủ yếu ở cả hai vùng đồng bằng, nhưng luồng di cư từ nông thôn tới nông thôn ở ĐBSH và từ thành thị tới thành thị ở ĐBSCL là dòng lớn thứ hai. Xu hướng di chuyển sản xuất công nghiệp về gần nông thôn hơn sẽ làm thay đổi luồng di cư trong thời gian tới, nhất là ở ĐBSCL.
• Phần lớn người di cư đến ĐBSH là di cư ngoại vùng, chủ yếu đến từ các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc với mong muốn tìm việc làm. Phần lớn người di cư đến ĐBSCL là di cư nội vùng, chủ yếu đến từ các tỉnh trong vùng có mong muốn tìm việc làm thu nhập cao hơn; biến đổi khí hậu có thể là nguyên nhân gián tiếp.
• Nhiều người di cư chưa hiểu rõ về đăng ký tạm trú và thông báo lưu trú nhưng đều thực hiện đăng ký tạm trú hoặc thông báo lưu trú. Quan trọng hơn, người di cư chưa hiểu rõ tầm quan trọng của việc đăng ký tạm trú đối với việc tiếp cận hệ thống bảo trợ xã hội.
• Công tác quản lý di cư được thực hiện sát sao ở các địa phương thuộc ĐBSCL nhưng lại có dấu hiệu bị quá tải ở các địa phương thuộc ĐBSH.
• Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý cư trú và cơ quan quản lý lao động chưa chặt chẽ do cơ quan quản lý lưu trú chưa chia sẻ dữ liệu về lao động, trẻ em di cư với cơ quan quản lý lao động để kịp thời dự báo nhu cầu về tiếp cận giáo dục, y tế, nhà ở và lập kế hoạch ngân sách đáp ứng nhu cầu gia tăng.
• Chính sách liên quan tới người di cư được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và mức độ triển khai thực hiện ở các địa phương cũng khác nhau.
• Chính sách ban hành và thực hiện ở cấp tỉnh còn có sự phân biệt giữa người thường trú và người tạm trú. Nhiều chính sách chỉ quan tâm đến đối tượng hỗ trợ là người thường trú.
• Phần lớn người di cư trong mẫu nghiên cứu chưa được hưởng chế độ an sinh xã hội như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội ở địa phương nơi đến.
• Nhiều người di cư có đời sống vật chất thiếu thốn, đời sống tinh thần nghèo nàn, đời sống xã hội hạn chế, với thu nhập và mức sống thấp, điều kiện nhà ở khó khăn, và thiếu thốn tình cảm gia đình.
• Hầu hết người di cư trong mẫu nghiên cứu không có chiến lược di cư rõ ràng bởi kế hoạch di cư của họ phụ thuộc vào cơ hội tìm kiếm việc làm.
• Tồn tại sự khác biệt về giới trong công việc và cuộc sống của người di cư, nổi bật ở ba khía cạnh: (i) người nữ di cư hầu như ít làm những công việc yêu cầu sự di chuyển và sức khỏe; (ii) người nữ di cư dễ chấp nhận các điều kiện làm việc để có việc làm và thu nhập hơn so với người nam di cư; và (iii) người nữ di cư phải đối mặt với nhiều thách thức về tâm lý, xã hội và hòa nhập cộng đồng hơn người nam di cư.
• Có biểu hiện cán bộ quản lý đùn đẩy công việc cho người di cư hoặc diễn giải quy định để thuận lợi cho cán bộ trong xử lý thủ tục hành chính liên quan đến người di cư .
• Nhiều trường hợp người di cư gặp khó khăn trong sử dụng dịch vụ giáo dục công lập cho con. Tiếp cận giáo dục công lập mầm non và tiểu học là tương đối khó khăn đối với trẻ em thuộc các hộ di cư ở ĐBSH.
• Người di cư hiếm khi tham gia họp và đóng góp ý kiến ở địa bàn khu dân cư; hầu hết chưa thực hiện quyền bầu cử ở nơi tạm trú. Bên cạnh đó, hoạt động hòa nhập cộng đồng của nhiều người di cư tương đối hạn chế do khác biệt về văn hóa và lối sống.
3. Hàm ý chính sách và thực tiễn
Di cư là hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính phổ biến trong quá trình phát triển. Di cư vừa là quyền vừa là giải pháp giảm nghèo và trao cơ hội cùng phát triển. Ở Việt Nam nói chung và hai vùng đồng bằng ĐBSH và ĐBSCL nói riêng, sự phát triển khác nhau giữa các địa phương, các tỉnh/thành phố, các vùng, cùng khát vọng vươn lên của mỗi cá nhân khiến di cư là không thể tránh khỏi. Vấn đề chính sách đặt ra là người di cư được thực hiện các quyền tự do di chuyển và cư trú; được đối xử bình đẳng như người thường trú. Cụ thể, người di cư cần: (i) được công nhận trong xây dựng và thực hiện chính sách; (ii) được bảo vệ trong công việc, đời sống, tiếp cận dịch vụ công, an sinh xã hội; và, (iii) hòa nhập cộng đồng tại nơi đến. Sau đây là một số hàm ý chính sách rút ra từ nghiên cứu, đồng thời cũng là những khuyến nghị của nhóm nghiên cứu.
Công nhận và thực thi quyền của người di cư. Có nhận biết được quyền và công nhận người di cư mới thực thi được quyền và bảo vệ được người di cư. Để được công nhận và thực thi quyền của người di cư, một số việc sau đây cần được triển thực hiện:
- Đảng và Nhà nước cần xác định rõ quan điểm di cư là hiện tượng kinh tế xã hội tất yếu, không thể đảo ngược. Người di cư là tài nguyên, bộ phận không tách rời với người dân thường trú đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội ở nơi đến. Do vậy, việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, hỗ trợ và bảo vệ an sinh xã hội của người di cư là chủ trương nhất quán.
- Chính sách không phân biệt giữa người dân thường trú và người di cư để đảm bảo quyền và nghĩa vụ bình đẳng. Những nội dung liên quan tới quyền cơ bản của người dân đã được lồng ghép trong xây dựng và ban hành chính sách, nhưng cần tiếp tục được thực hiện bình đẳng giữa người di cư và cư dân thường trú. Tránh trường hợp địa phương ít nguồn lực thì không hỗ trợ và bảo vệ người di cư (ví dụ trong tiếp cận giáo dục, y tế và phúc lợi xã hội).
- Các cơ quan chức năng tuyên truyền về quyền và lợi ích khi người di cư thực hiện đăng ký tạm trú. Những thông tin này nên được thiết kế ngắn gọn, sơ đồ hóa gửi tới chủ trọ, chủ thầu lao động và tổ dân phố. Cần nhấn mạnh vai trò của chủ trọ, chủ thầu lao động và tổ trưởng dân phố trong tuyên truyền về quyền và lợi ích của đăng ký tạm trú đối với người di cư.
- Các cơ quan chức năng cần nâng cao trách nhiệm giải thích và hướng dẫn của cán bộ cơ sở, bao gồm cán bộ xã, công an xã, bộ phận thực hiện dịch vụ hành chính công ở cấp xã. Đồng thời, tăng cường ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia, thực hiện chuyển đổi số và trách nhiệm thực thi công vụ. Điều này giúp người di cư dễ dàng tiếp cận các dịch vụ công, thực hiện những quyền cơ bản của mình.
Kết nối cơ quan quản lý cư trú và cơ quan quản lý chuyên ngành. Việc kết nối này nhằm hỗ trợ và bảo vệ người di cư tốt hơn, kịp thời hơn. Cơ quan quản lý cư trú nắm bắt dữ liệu di cư qua cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia nhanh chóng và đầy đủ. Các dữ liệu được chia sẻ giúp cơ quan quản lý lao động và các cơ quan quản lý chuyên ngành khác có thêm đầu vào phục vụ lập kế hoạch công tác của ngành. Có như vậy, người di cư mới được hỗ trợ và bảo vệ kịp thời. Các hoạt động chính bao gồm:
- Cơ quan quản lý cư trú và các cơ quan quản lý chuyên ngành thực hiện và đánh giá hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan thực hiện Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; đẩy mạnh chia sẻ dữ liệu giữa các ngành.
- Ban hành và thực hiện kế hoạch phối hợp liên ngành có tính đến nhu cầu và quyền lợi của người di cư trong các vấn đề về nhà ở, giáo dục, y tế và an sinh xã hội. Công tác lập kế hoạch, ra quyết định quản lý ở địa phương cần tính tới đối tượng người di cư, làm cơ sở dự báo cầu nhà ở, trường học, cơ sở y tế, cơ sở hạ tầng, thiết chế văn hóa. Đặc biệt, các tỉnh ĐBSH và đô thị lớn hoặc vùng công nghiệp hóa nhanh ở ĐBSCL (như Cần Thơ và Long An) tập trung nguồn lực xây dựng các cơ sở giáo dục mầm non và tiểu học.
- Lồng ghép di cư nội địa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội địa phương; phân bổ vốn/ngân sách có tính đến luồng di cư nội địa; thực hiện tốt quản trị tiên liệu về di cư tại các địa phương tiếp nhận người di cư.
Tăng cơ hội việc làm ở khu vực chính thức cho người di cư. Người di cư làm việc ở khu vực phi chính thức không có hợp đồng lao động, không được bảo vệ an sinh xã hội cơ bản (không BHYT, BHXH, BHTN, không được trợ giúp …). Cần có các giải pháp tăng cơ hội việc làm ở khu vực chính thức cho người di cư nhằm bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn cho người di cư.
- Cơ quan quản lý lao động giám sát việc thuê và sử dụng lao động trên địa bàn, nhất là việc ký hợp đồng lao động theo quy định của Bộ Luật Lao động 2019 tại các khu vực/địa bàn công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh.
- Cơ quan chức năng và đơn vị cung ứng lao động cung cấp thông tin thị trường lao động điểm đến. Thông tin việc làm và cuộc sống ở nơi đến giúp giảm rủi ro di cư. Ngoài các kênh của nhà tuyển dụng, các cơ quan tổ chức, đoàn thể tăng cường giới thiệu việc làm qua mạng lưới, nhóm/hội, tổ chức chính trị xã hội; qua các nền tảng mạng xã hội; qua các chuyên mục thông tin việc làm cố định của báo, phát thanh, truyền hình ở nơi đến và các địa phương nơi đi tiềm năng. Với các địa phương ở ĐBSH, cần chú ý cung cấp thông tin sớm tới người lao động di cư từ các tỉnh thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc, và các địa phương ở ĐBSCL cần chú ý tới người di cư giữa các khu vực nông thôn trong vùng.
- Bồi dưỡng kỹ năng, tay nghề và kiến thức chuyên môn cho người di cư cả nơi đi và đến. Đào tạo/bồi dưỡng có thể thực hiện bằng kinh phí của nhà tuyển dụng hoặc địa phương. Các cơ quan chức năng ở địa phương cần bảo đảm không phân biệt người thường trú hay tạm trú khi tổ chức đào tạo nghề. Cần khắc phục thất bại trong điều phối hoạt động đào tạo bao gồm lựa chọn nghề và người tham gia đào tạo/bồi dưỡng để đáp ứng cầu lao động trên địa bàn. Các tỉnh ĐBSCL cần đào tạo và bồi dưỡng cho người di cư nội vùng có chuyên môn thấp.
- Hỗ trợ chuyển đổi lao động di cư từ khu vực phi chính thức sang chính thức. Giải pháp này hướng tới khuyến khích tạo việc làm ở khu vực chính thức và chính thức hóa khu vực phi chính thức. Đây là vấn đề lớn mang tính chiến lược lâu dài.
Tăng tiếp cận nhà ở cho người di cư. Nhà ở của người di cư là vấn đề được các địa phương quan tâm nhưng còn chưa đáp ứng yêu cầu. Thị trường hiện chưa làm tốt vai trò cung ứng nhà ở tiêu chuẩn cho người di cư bởi nguồn cung hạn chế, giá cả và tiền thuê cao. Do đó, vai trò của Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc giải quyết nhà ở cho người di cư cần tiếp tục nghiên cứu thực hiện nhằm hỗ trợ và bảo vệ người di cư trong tiếp cận nhà ở.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng triển khai thực hiện quy hoạch quỹ đất cho xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, trong đó không phân biệt người thường trú hay người di cư. Khi quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp đi kèm với quy hoạch nhà ở cho người lao động. Các tỉnh ĐBSCL cần chú trọng việc này để đón luồng di cư khi các tỉnh đẩy mạnh công nghiệp hóa. Ví dụ, Bình Dương cho phép các dự án có thể chuyển sang xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp, yêu cầu các dự án sản xuất dành 20% đất cho xây dựng nhà ở và các thiết chế văn hóa dành cho người lao động.
- Các cơ quan chức năng tại địa phương nơi đến thực hiện đa dạng hình thức cung ứng và loại nhà ở cho người lao động. Các phương án nhà nước xây dựng để bán, cho thuê, doanh nghiệp hỗ trợ tiền thuê nhà và được hoạch toán vào chi phí, nhà ở cho người lao động của doanh nghiệp, nhà ở thanh niên, nhà ở công đoàn, nhà trọ tư nhân/cộng đồng. Các cơ quan chức năng cũng cần chuẩn hóa và giám sát thực hiện điều kiện tối thiểu của các khu nhà trọ, phòng trọ cho lao động di cư nhằm bảo đảm an toàn sức khỏe, tính riêng tư, phòng chống cháy nổ cho người ở trọ. Nhà ở cho người lao động có thu nhập thấp nên xây dựng ở ngoại vi, đơn giản và tiện ích cơ bản, giảm giá thành và giảm tải cho đô thị, nhất là ở ĐBSH.
Giải quyết di cư do yếu tố đẩy và khuyến khích di cư “con lắc” ở ĐBSCL. Di cư do yếu tố đẩy là vấn đề ở ĐBSCL, trong đó nghèo, đào tạo cho người lao động, việc làm và an sinh xã hội là những vấn đề trọng tâm. Di cư con lắc giúp giải quyết việc làm nhưng không xáo trộn cuộc sống, học hành, không gây áp lực trường lớp, nhà ở, tiếp cận dịch vụ công và an sinh xã hội ở địa phương nơi đến.
- Tạo việc làm cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn nhằm giữ lao động ở lại. Các hoạt động hướng tới phát triển khu cụm công nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư; khuyến khích hoạt động kinh tế phi nông nghiệp gắn với nông nghiệp (như du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch trải nghiệm); nghiên cứu ứng dụng các hoạt động kinh tế và sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL.
- Giảm nghèo đa chiều và nghèo an sinh ở ĐBSCL. Giảm nghèo là vấn đề được các địa phương thực hiện liên tục. Tuy vậy, các địa phương trong vùng cần thực hiện giảm nghèo đa chiều và nghèo an sinh.
- Xây dựng mạng lưới đường xá tăng kết nối giao thông đường bộ, tạo điều kiện người di cư đi lại trong ngày nội vùng ĐBSCL. Các địa phương trong vùng ĐBSCL có địa giới chia cắt bởi sông, kênh, rạch nên hạn chế việc di chuyển trong ngày của người lao động. Một số địa phương giáp ranh với thành phố Hồ Chí Minh tận dụng di cư “con lắc” để thu hút lao động chất lượng cao. Việc di chuyển trong ngày mang lại lợi ích cho cả người di cư, các địa phương ở nơi cư trú và nơi làm việc, không gây sức ép về trường học, nhà ở, tiếp cận dịch vụ công và an sinh xã hội.
Khuyến khích di cư theo mạng lưới. Di cư theo mạng lưới đề cập tới sử dụng “vốn xã hội” trong di chuyển, chuyển đổi và thích nghi với bối cảnh mới ở nơi đến. Người di cư có thể sử dụng các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ gia đình, làng xóm, quan hệ giữa người di cư với nhau (từng làm việc cùng nhau) và quan hệ cầu nối trung gian (ví dụ như công ty môi giới, chủ thầu lao động ở ĐBSH) để hỗ trợ di cư. Di cư theo mạng lưới giúp tăng tính vững chắc về việc làm, cuộc sống ở nơi đến, tiếp cận dịch vụ công; di cư theo mạng lưới còn giúp bảo vệ và hòa nhập cộng đồng của người di cư.
- Khuyến khích người muốn di cư trẻ đi cùng thành viên gia đình hạt nhân. Việc di cư cùng thành viên gia đình là một dạng của di cư theo mạng lưới, không chia cắt gia đình, tình cảm vợ chồng và đảm bảo sự giám sát của bố/mẹ với con cái. Điều này còn có tác dụng giảm chi phí xã hội và bảo vệ gia đình, cộng đồng và thế hệ tương lai.
- Khuyến khích lao động di cư theo nhóm cộng đồng chia sẻ tập quán, giá trị văn hóa và lối sống. Di cư theo cộng đồng diễn ra tương đối phổ biến ở ĐBSH, khi có cộng đồng người dân tộc cùng nhau di cư xuống làm việc trong cùng khu công nghiệp và ở cùng khu nhà trọ. Điều này giúp họ duy trì được những tập quán, giá trị văn hóa cộng đồng của họ và họ không bị “ngoài lề” ở điểm đến. Để phát huy di cư theo mạng lưới này, vai trò của người lãnh đạo trong cộng đồng đó, vai trò của các đơn vị trung gian như công ty tuyển dụng/cung ứng lao động là quan trọng.
- Tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp cung ứng lao động, doanh nghiệp sử dụng lao động, công đoàn trong việc tạo điều kiện cho lao động di cư kết nối, tham gia các hội, nhóm cộng đồng tại nơi đến. Chẳng hạn, các công ty cung ứng lao động ở Bắc Ninh, mạng lưới chủ nhà trọ ở Bình Dương trong hỗ trợ người di cư tìm nhà ở; mạng lưới nhà thầu xây dựng ở Long An, Hải Dương là những thực tiễn tốt.
Hỗ trợ và bảo vệ người nhập cư hòa nhập cộng đồng, nhất là người di cư ngoại vùng đến ĐBSH. Người nhập cư ở ĐBSH chủ yếu là người nhập cư ngoại vùng, đến từ các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. Nhiều người trong số họ là người dân tộc thiểu số, có chuyên môn và tính kỷ luật lao động còn hạn chế, có tập quán và giá trị văn hóa tương đối khác biệt. Vì vậy, vai trò của chính quyền, người di cư, công ty cung ứng lao động/nhà thầu và cộng đồng địa phương là rất quan trọng.
- Chính quyền công khai thông tin nhu cầu lao động, phối hợp với các địa phương cung cấp lao động tiềm năng ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Coi người di cư là một bộ phận dân cư không tách rời, thu hút sự tham gia của họ vào các hoạt động của địa phương, sắp xếp các hoạt động cộng đồng phù hợp với thời gian của người di cư, tôn trọng tập quán và giá trị văn hóa của người di cư. Chúng tôi nhấn mạnh vai trò của tổ trưởng dân phố/trưởng thôn ở các khu vực công nghiệp hóa trong hỗ trợ người di cư hòa nhập cộng đồng.
- Khuyến khích người di cư chủ động tìm hiểu thông tin về cộng đồng nơi đến và hòa nhập cộng đồng. Người di cư cần tìm hiểu về điểm đến, kế hoạch di cư của mình, duy trì tập quán/thói quen lành mạnh. Đây là những cơ sở để người di cư hòa nhập cộng đồng.
- Yêu cầu doanh nghiệp môi giới/cung ứng lao động cung cấp thông tin về điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa nơi đến cho người được tuyển dụng. Các công ty thực hiện rà soát tuyển dụng lao động, thực hiện bồi dưỡng và hướng dẫn người lao động thực hiện quyền của người di cư. Nhà thầu và công ty cung ứng/môi giới lao động là một đầu mối trong thực hiện hỗ trợ người di cư tiếp cận an sinh xã hội và hòa nhập cộng đồng.
- Thúc đẩy cộng đồng địa phương nơi đến coi người di cư là một bộ phận dân cư không tách rời, thu hút sự tham gia của họ vào các hoạt động của địa phương, tôn trọng tập quán và giá trị văn hóa của người di cư.
HOÀNG HÀ
