Lao động di cư và giảm nghèo: các bằng chứng nghiên cứu trong nước và quốc tế

Phạm Võ Quỳnh Hạnh

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

1. Đặt vấn đề

Vào nửa cuối thế kỷ XIX, quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh đã làm cho đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp và năng suất nông nghiệp bị giảm xuống, trong khi đó, cơ hội việc làm và thu nhập ở các đô thị lớn là niềm khát khao của những người nông dân nghèo khổ. Cho nên, người dân nông thôn chấp nhận ly hương để đến các đô thị lớn với mong muốn tìm kiếm cơ hội đổi đời.

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, dòng người di cư vào các thành phố ngày càng nhiều hơn. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và Nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê Việt Nam, cả nước có khoảng 1,3 triệu người di cư trong và ngoài tỉnh [1]. Đa số người tham gia di cư chủ yếu là thanh niên, đăc biệt phụ nữ tham gia di cư cũng tăng lên một cách đáng kể. Theo kết quả nghiên cứu của Liên Hợp quôc (2015) cho thấy, có khá nhiều nguyên nhân khiến cho người dân nông thôn chấp nhận rời bỏ làng quê đến những nơi đô thị. Trong số đó, có khoảng 70% người di cư trong nước với lý do kinh tế, bao gồm di cư tìm kiếm việc làm và cải thiện điều kiện sống [2, tr24]. Điều này cho thấy, người dân chấp nhận ly hương cũng vì cuộc sống mưu sinh, tìm kiếm cơ hội đổi đời.

Các nghiên cứu trước đây (IOM, 2015; Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2018 và UN, 2010; Tổng Cục Thống kê, 2011) [3] đã chỉ ra rằng, di cư nội địa nói chung và lao động di cư nói riêng có tác động khá mạnh mẽ đến chiến lược giảm nghèo ở nông thôn. Có nghĩa là, trong bối cảnh nghiên cứu chiến lược giảm nghèo, di cư và giảm nghèo có liên hệ với nhau. Vì thế, nghiên cứu mối quan hệ giữa di cư và giảm nghèo là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Với thực trạng này, bài viết sẽ tập trung phân tích các nghiên cứu trong nước và quốc tế, bài viết cung cấp các bằng chứng thực tế về tác động của lao động di cư đối với giảm nghèo. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho chiến lược giảm nghèo tại các địa phương, góp phần xây dựng chương trình, hành động giảm nghèo bền vững cho người dân nói chung, đồng bào dân thiểu số toàn vùng nói riêng.

2. Một số bằng chứng về tác động của lao động di cư đối với giảm nghèo bền vững

Các bằng chứng nghiên cứu trong và ngoài nước đều có sự thống nhất với nhau rằng, lao động di cư có tác động vừa tích cực và vừa tiêu cực đến chiến lược giảm nghèo.

2.1 Tác động tích cực của lao động di cư đối với giảm nghèo

Các nghiên cứu trong nước và quốc tế đã có sự thống nhất với nhau rằng, lao động di cư tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội thông qua các chỉ báo như (1) lượng tiền của người lao động di cư gửi về cho gia đình có thể giúp cải thiện đời sống hộ gia đình và kinh tế ở địa phương, (2) sử dụng có hiệu quả lượng tiền của người lao động di cư gửi về, (3) người lao động di cư có nhiều vốn con người và vốn xã hội, giúp cho người di cư có thể làm tốt hơn khi họ quay trở về quê hương.

(1) Người di cư gửi tiền về gia đình, góp phần cải thiện đời sống gia đình và kinh tế ở địa phương. Các nghiên cứu quốc tế (Hogo, 1993; Casltes, 2000; PAI, 2011)[4] đã khẳng định, di cư có tác động khá mạnh mẽ đến sự phát triển của nơi đến và nơi đi. Hogo (1993) cho rằng, xét về phương diện kinh tế, lao động di cư làm tăng thu nhập của các gia đình có người di cư. Tiền gửi về của người di cư cho gia đình, nếu được đem đầu tư sẽ là một phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế trong các làng quê. Nghiên cứu của Castles (2000) cho rằng, di dân đã đóng góp tích vào việc giảm áp lực của nghèo đói và bất bình đẳng. Dường như các nghiên cứu này thống nhất với nhau rằng, di cư có thể góp phần cải thiện đời sống của hộ gia đình thông qua số lượng tiền của người di cư chuyển về cho gia đình họ. Nghiên cứu của PAI (2011) cho thấy, di cư có hiệu quả kinh tế đối với các nước đang phát triển, đặc biệt thông qua tiền gửi hoặc lượng kiều hối gửi về cho gia đình của họ. Năm 2009, có 316 tỷ đô la được gửi về các khu vực đang phát triển. Ở nhiều nước, khoản tiền gửi về có tác động đến việc giảm nghèo ở những gia đình mà có người di cư. Nghiên cứu còn cho thấy, việc di cư có thể tác động đến nhiều lợi ích xã hội, đặc biệt đối với các bé gái. Chẳng hạn, ở vùng nông thôn Pakistan, trẻ em gái dường như không đi học một cách đúng mức, nhưng khi di cư cùng gia đình, các em được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, được đi học nhiều hơn và ít gửi đi làm hơn [4]. Điều này cho thấy, trình độ của người phụ nữ là thước đo của sự phát triển, góp phần tích cực đối với chiến lược giảm nghèo. Vì thế, việc lao động di cư đã khiến cho tình trạng đầu tư giáo dục cho trẻ em gái sẽ góp phần giảm nghèo bền vững. Qua bằng chứng nghiên cứu PAI (2011) đã cho thấy, lao động di cư tác động tích cực đến chiến lược giảm nghèo thông qua khoản tiền gửi về cho gia đình cũng như có khả năng đầu tư phát triển cho con cái của người di cư.

Ở Châu Á, nghiên cứu của IOM (2022) cũng khẳng định rằng, tiền gửi trong nước có thể đóng góp một số tiền lớn cho ngân sách hộ gia đình nông thôn. Nghiên cứu của Zhan Shaohua (2022) cho thấy, ở Trung Quốc, khoản tiền của lao động di cư đóng vai trò quan trọng đối với xóa đói giảm nghèo và cải thiện tình hình phát triển của nơi đi, đặc biệt là người nghèo. Ước tính trung bình, mỗi lao động di cư đã gửi 4522,15 nhân dân tệ (khoảng 545 USD) trong năm 2022 [3, tr70]. Điều này có nghĩa là, gia đình nghèo có thể thoát khỏi nghèo đói từ sự giúp đỡ của các khoản tiền gửi về. Đồng thời, Zhan Shaohua đã tính toán rằng, lao động di cư từ nông thôn đến thành thị đóng góp 16% cho tổng số tăng trưởng GDP trong 18 năm qua. Lao động di cư được xem như là một trong những nguyên nhân góp phần tăng trưởng bình quân hàng năm của nền kinh tế quốc gia khoảng 9,2% giữa năm 1978 và 1997 [3, tr71].

Ở Việt Nam, các nghiên cứu (UN, 2015) cũng có kết quả khá thống nhất với các nghiên cứu quốc tế rằng, lao động di cư đã đóng góp khá tích cực trong việc cải thiện đời sống của hộ gia đình nghèo có người di cư [2]. Nghiên cứu của UN (2015) cho thấy, tiền gửi là một phần thu nhập của người di cư kiếm được tại nơi đến, gửi về nhà mà hầu hết là các khu vực nông thôn và nghèo hơn và vì thế tiền gửi là một trong những tác động trực tiếp tích cực của sự dịch chuyển lao động trong nước. Hơn một nửa số người di cư trong cuộc điều tra dân số và nhà ở 2019 cho biết có gửi tiền về gia đình mình tại nơi đi [1]. Việc gửi tiền phổ biến và việc sử dụng tiền gửi là một số chỉ báo về đóng góp của người di cư trong nước vào sự giàu có của các địa phương có người di cư trong quá trình phát triển gần đây của Việt Nam. Những dòng thu nhập như vậy được chuyển từ nơi có nhiều cơ hội việc làm tới các vùng nông thôn có ít cơ hội việc làm. Nó góp phần chia lại của cải trên phạm vi cả nước và có đóng góp vào việc xóa đói giảm nghèo cho những khu vực kém phát triển hơn ở Việt Nam. Dòng tiền gửi của người dân di cư trong nước cho thấy quyết định di cư không chỉ dựa vào mục đích và các nhu cầu chưa được đáp ứng của cá nhân người di cư mà các quyết định này có thể tác động bởi các chiến lược của hộ gia đình muốn nâng cao tối đa thu nhập [1,tr43]. Có thể nói, bằng chứng nghiên cứu này đã khẳng định vai trò của lao động di cư thông qua tiền gửi của họ đối với cải thiện đời sống của gia đình cũng như sự phát triển của địa phương.

Một bằng chứng nghiên cứu khác cũng cho thấy, lao động di cư là một phương pháp thu nhập đối với nhiều hộ gia đình nông dân. Bằng cách này, số tiền gửi không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên của cá nhân lao động di cư mà là một phần trong chiến lược sinh kế của hộ gia đình. Vì vậy, đây là một phương kế sinh nhai của những người nghèo. Một nghiên cứu gần đây tiến hành tại tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã chứng minh kết luận này khi 42% số hộ gia đình được điều tra cho biết gia đình họ có ít nhất một người di cư. Có 96% số người trả lời cho biết họ nhờ có lao động di cư mà thu nhập của gia đình họ cao hoặc ít nhất là gần mức dương [2, tr41]. Điều này cho thấy, tiền gửi của lao động di cư đã và đang trở thành nguồn thu nhập quan trọng của hộ gia đình, chiếm khoảng 4-11% tổng thu nhập tùy theo tổng vùng. Có thể nói, bằng chứng này đã góp phần củng cố thêm về vai trò của lượng tiền mà lao động di cư gửi về đối với giảm nghèo trong bối cảnh hiện nay. 

Như vậy, các nghiên cứu đã đưa ra bằng chứng khá thuyết phục rằng, tiền gửi của người lao động di cư là nguồn đầu tư trực tiếp cho khu vực nông thôn. Rất nhiều gia đình ở nông thôn sẽ không thể nào đủ tiền để trang trải cho cuộc sống và các khoản đóng góp cho giáo dục và sức khỏe nếu họ không tham gia vào các công việc kiếm thu thập ở các trung tâm đô thị. Sự kết hợp giữa các nguồn thu nhập - thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp, hoạt động phi nông nghiệp và các khoản tiền gửi về của những người lao động di cư là rất cần thiết cho các gia đình nông thôn để bảo vệ gia đình khỏi những rủi ro, nợ nần, ốm đầu và suy sụp [5, tr107]. Có thể nói, tác động của lượng tiền mà người di cư gửi về cho gia đình họ đã giúp cho thu nhập của gia đình được tăng lên, nhờ đó cải thiện đời sống của hộ gia đình và phát triển kinh tế ở địa phương. Vì thế, tiền gửi của người lao động di cư gửi về gia đình đã tác động tích cực đến chiến lược giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Do đó, những rào cản nhằm tạo ra cản trở di cư chỉ làm giảm lợi ích của di cư và đóng góp tích cực của lao động di cư vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của các hộ gia đình ở nông thôn [5, tr107]. Cho nên, cần có chính sách đảm bảo quyền được di cư, lao động di cư của người dân theo hướng tích cực nhằm góp phần thực hiện thành công lộ trình xóa đói giảm nghèo một cách bền vững.

(2) Sử dụng có hiệu quả lượng tiền mà người lao động di cư gửi về gia đình cũng là yếu tố góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tiền gửi của người lao động di cư về gia đình ở nơi mà họ ra đi thường được người thân sử dụng cho việc đầu tư giáo dục, chi tiêu sinh hoạt hàng ngày, đầu tư vào sản xuất nông nghiệp…Bằng chứng của cuộc điều tra di dân 2019 cho thấy, khoản chi lớn thứ 3 của gia đình còn lại ở quê hương từ tiền gửi là vào giáo dục. Cứ 5 người được hỏi trong cuộc điều tra thì có một người cho biết có sử dụng tiền gửi vào mục đích này [2, tr45]. Ngoài ra, khoản tiền mà người di cư gửi về cho gia đình của họ cũng được đầu tư vào sản xuất nông nghiệp như mua máy móc, phân bón… Một bằng chứng khác cũng cho thấy, số tiền của người lao động di cư gửi về gia đình thường dùng cho các khoản như chi phí giáo dục, đóng tiền học phí cho con cái của họ (39%), cứ 4 người lao động di cư thì có một người cho rằng một phần thu nhập của họ đầu tư cho sản xuất nông nghiệp và có 14% người di cư cho rằng họ dùng tiền kiếm được ở các trung tâm đô thị lớn để gửi về đầu tư sản xuất và kinh doanh phi nông nghiệp [5, tr107]. Kết quả là, khả năng tiếp cận giáo dục của con cái người lao động di cư và năng suất lao động ở nông thôn đã tăng lên. Có thể nói, việc đầu tư cho giáo dục và sản xuất nông nghiệp là một trong những cách sử dụng đồng tiền của người di cư gửi về có ý nghĩa, góp phần thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo. Bởi lẽ, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Người dân đã nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục rằng, giáo dục sẽ mang lại cho con cái họ và gia đình họ nhiều cơ hội đổi đời. Cộng với việc đầu tư trong sản xuất cũng sẽ góp phần làm cho thiếu ăn, thiếu mặc sẽ không còn nữa. Nếu sử dụng đồng tiền mà người lao động di cư gửi về cho những mục đích tầm thường như chi tiêu cho sinh hoạt hoặc cho các hoạt động vô bổ khác, có lẽ gánh nặng nghèo khổ sẽ không thể rút bỏ mà thậm chí còn nặng nề hơn. Như vậy, việc sử dụng có hiệu quả đồng tiền mà người di cư đã gửi về sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững. Do đó, cần phải có những chương trình, chính sách giúp cho những người ở lại sử dụng có hiệu quả đồng tiền mà người di cư đã gửi về.

(3) Người di cư có nhiều vốn con người và vốn xã hội, giúp cho người di cư có thể làm tốt hơn khi họ quay trở về quê hương. Bằng chúng nghiên cứu của Zhan Shaohua (2005) cho thấy, trải nghiệm di cư có thể giúp vốn con người của lao động di cư được tăng lên [4]. Bởi vì, thông qua trải nghiệm đó, người di cư có thể học tập những kỹ năng phi nông nghiệp càng ngày càng mở rộng nhiều kinh nghiệm mới, có nhiều bạn bè mới… Nhiều người di cư, đặc biệt là những thanh niên đi tìm kiếm việc làm ở các thành phố không chỉ vì thu nhập mà điều quan trọng hơn hết là vì họ có nhiều lợi ích từ những trải nghiệm mới của di cư. Đặc biệt, những trải nghiệm di cư đã giúp cho phụ nữ nông thôn cũng có thể cải thiện hình ảnh của họ trong gia đình của họ [4, tr70]. Một nghiên cứu khác cũng có phát hiện tương tự rằng, một tác động di cư lên cộng đồng và hộ gia đình tại nơi đi đã nhận được là việc chuyển giao kiến thức và hành vi của người di cư khi trở về. Chẳng hạn, người ta thấy rằng, người di cư khi trở về địa phương thường có trong tay nghề nghiệp hoặc có hiểu biết về y tế nhiều hơn. Người ta cũng cho rằng, người dân di cư sau khi trở về sẽ có trong tay có một số tiền giành dụm được và họ có thể bắt đầu kinh doanh và có những đóng góp nhiều hơn cho phúc lợi gia đình và tiềm năng là cho cả cộng đồng [2, tr45]. Có thể nói, những trải nghiệm của người lao động di cư có được trong quá trình bôn ba, bươn chải của cuộc sống tha phương đã giúp cho họ dường như có nhiều vốn con người (trình độ, tay nghề, kỹ năng…) và điều này đã giúp ích cho họ khi trở về quê nhà có thể làm những công việc mang lại thu nhập cao cho bản thân và gia đình, góp phần cải thiện đời sống của họ, sâu xa hơn là giúp gia đình họ có thể thoát nghèo.

Ngoài ra, những người di cư ở thành phố về nông thôn thường là những người có trình độ tay nghề khá cao hơn những người không di cư ở nông thôn. Ở đây, họ có thể tự tạo ra công việc để giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động ở nông thôn hoặc áp dụng những hiểu biết của họ vào trong sản xuất nông nghiệp cũng sẽ góp phần làm năng suất. Điều này sẽ làm tăng thêm thu nhập của người dân nông thôn, góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn. Hơn nữa, các nghiên cứu cho thấy, người dân di cư ở thành phố thường có mức sống thấp hơn người dân không di cư ở thành phố nhưng họ lại có mức sống cao hơn những người dân không di cư ở nông thôn. Vì vậy, dòng di cư từ thành phố về nông thôn sẽ có lợi ích cho cả thành thị và nông thôn, làm giảm khoảng cách kinh tế giữa hai vùng này [6,tr45]. Do đó, trong chiến lược giảm nghèo cần chú ý đến dòng di cư này.

Như vậy, những trải nghiệm lao động di cư đã tạo điều kiện cho người di cư có nhiều vốn con người, vốn xã hội để có thể giúp họ cải thiện đời sống của bản thân, gia đình và thậm chí cả cộng đồng khi họ quay trở lại quê nhà. Điều này có ý nghĩa đối với chiến lược giảm nghèo hiện nay.

Nhìn chung, các nghiên cứu trong nước và quốc tế đã đưa ra khá nhiều bằng chứng thuyết phục về tác động tích cực của di cư đối với giảm nghèo hiện nay. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình di cư cũng tác động đến nghèo đói, khiến cho nghèo đói ngày càng trở nên trầm trọng hơn nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời.

2.2 Tác động tiêu cực của di cư đối với giảm nghèo

Trước hết, người lao động di cư rất dễ bị tổn thương, bởi vì họ luôn phải đối diện với nhiều rủi ro trong suốt quá trình di cư như thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, thường làm những công việc nặng nhọc nhưng thu nhập thấp… Cộng với việc khó tiếp cận với các dịch vụ xã hội cũng như thừa hưởng các chương trình hỗ trợ khác đã khiến cho cuộc sống của họ bấp bênh. Chính vì thế, tác giả Phạm Xuân Đại (2019) đã khẳng định rằng, quá trình đô thị hóa quá nhanh đã khiến nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp của người nông dân bị thu hẹp. Chính điều này đã khiến cho nhiều người nông dân phải ly hương đến những đô thị lớn để tìm kiếm cơ hội đổi đời. Cộng với tìm kiếm việc làm khó khăn vì người nông dân chưa có thể đáp ứng yêu cầu của công việc ở đô thị, cho nên cuộc sống của người lao động di cư khá bấp bênh [7]. Một bằng chứng khác từ cuộc điều tra năm 2004 cho thấy, mặc dù có thêm thu nhập sau khi di cư, mức thu nhập trung bình của người lao động di cư vẫn thấp hơn nhiều so với không di cư tại nơi họ đến. Trong số những người di cư, nữ di cư và người di cư đến từ các dân tộc thiểu số có vẻ như gặp nhiều thiệt thòi hơn về thu nhập, trung bình họ kiếm được ít tiền hơn so với nữ không di cư và ít hơn thu nhập của nam giới ở cả hai nhóm (di cư và không di cư) [2,tr19]. Hệ quả là, họ dễ rơi vào hoàn cảnh sống bấp bênh và có nguy cơ trở thành người nghèo đô thị. Như vậy, tình trạng nghèo của họ không được cải thiện khi di cư mà nó chỉ chuyển từ trạng thái nghèo nông thôn sang nghèo thành thị.

Thứ đến, dòng người lao động di cư nông thôn- thành thị thường chủ yếu là thanh niên, nam giới và phụ nữ. Trong khi đó, những người ở lại thường chủ yếu trẻ em và người già. Đây là lực lượng lao động không thể trực tiếp sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Hơn nữa, những người di cư cũng thường là lực lượng lao động có sức khỏe, tay nghề và trình độ học vấn tương đối cao hơn so với người không di cư. Do đó, việc di cư này đã kiến cho thiếu hụt về số lượng lẫn chất lượng của lực lượng lao động ở nông thôn một cách nghiêm trọng. Các nghiên cứu cho thấy, dòng chảy di cư nông thôn- thành thị, đặc biệt di cư quốc tế được coi như là hiện tượng “chảy máu chất xám” ở các vùng nông thôn, ở những đất nước kém phát triển. Điều này đã dẫn đến hệ quả là, năng suất lao động ở nông thôn bị giảm sút, chất lượng sản phẩm nông nghiệp không cạnh tranh…Nghiên cứu của Zhan Huao (2005) [4] cho thấy, việc chảy máu chất xám ở khu vực mà người di cư ra đi đã khiến sản lượng nông nghiệp ở nông thôn không thể cạnh trạnh ở Trung Quốc và các thị trường khác trên thế giới. Do đó, họ chấp nhận rời bỏ đất đai mà họ gắn bó tự bao đời nay để tìm kiếm việc làm ở khu vực phi chính thức tại các thành phố lớn. Chính vì thế, ở nông thôn không thể tăng năng suất lao động, cho nên đã khiến cho tình trạng nghèo càng thêm trầm trọng hơn.

Cuối cùng, lao động di cư cũng tác động đến hành vi sức khỏe của người di cư và người ở lại. Người lao động di cư ở các thành phố thường không được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Cộng với sự thiếu kiến thức, thông tin cần thiết liên quan đến các dịch vụ sẵn có, làm việc nặng nhọc và sinh hoạt trong điều kiện thiếu thốn đã khiến cho người di cư gặp nhiều vấn đề về sức khỏe [3]. Một nghiên cứu khác của tác giả Lưu Đình Nhân [8] cho thấy, người ở lại cũng chịu tác động không nhỏ từ người thân di cư của họ. Chẳng hạn, nam giới di cư thường làm việc sống trong các nhà máy, xí nghiệp nên thường có những hành vi nguy cơ cao liên quan đến các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là HIV/AIDS. Khi họ trở về gia đình, việc lây truyền cho vợ, con là điều không thể tránh khỏi. Do đó, những hành vi liên quan đến sức khỏe của người lao động di cư cũng như người ở lại sẽ khiến cho gia đình họ dễ rơi vào tình trạng nghèo hoặc nghèo trầm trọng hơn, bởi vì thứ nhất, họ không còn sức khỏe để làm ra thu nhập cho gia đình và thứ hai, họ phải đầu tư một khoản chi phí khá lớn để khám chữa bệnh.

Kết luận

Như vậy, các nghiên cứu đã đưa ra khá nhiều bằng chứng về sự tác động tiêu cực đến người di cư và người ở lại như tính dễ tổn thương của người di cư, thiếu hụt sức lao động ở nông thôn, sức khỏe và những chi tiêu cho sức khỏe của ngươi di cư và người ở lại. Chính điều này đã tác động đến công tác xóa đói giảm nghèo đã gian nan lại càng gian nan hơn. Vì thế, việc giảm nghèo ở các địa phương cần phải rút ra những bài học kinh nghiệm từ những bằng chứng nghiên cứu trong nước và quốc tế, để có những chính sách khuyến khích phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tiêu cực của lao động di cư đối với chiến lược giảm nghèo hiện nay.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tổng cục Thống kê (2020), Tổng điều tra Dân số và Nhà ở 2019.

2. UN (United Nations in Viet Nam) “Điều tra di cư nội địa Quốc gia 2015

3. Báo cáo: “Tổ chức di cư Quốc tế- IOM, 2022”

4. PAI (Population Action International) (2011), “Di cư trong bối cảnh phát triển bền vững”.

5. Trịnh Thị Quang (2017),bài viết về “chính sách di dân lao động và phân bố dân cư miền núi Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).

7. Phạm Xuân Đại (2019), “Xung quanh tình hình sản xuất và đời sống của một số cộng đồng di dân”, Tạp chí Nội vụ, (12).

8. Lưu Đình Nhân (2000), “Những nhân tố xã hội trong quá trình ổn định của một số cộng đồng di dân”, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Công nghệ, (3).

9. Đậu Tuấn Nam (2000), nghiên cứu “Di cư của người Hmông từ đổi mới đến nay”

10. Vũ Trường Giang (2012), Đặng Thị Hoa (2012), “Di cư xuyên biên giới của các tộc người thiểu số tác động đến ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở vùng tây Bắc Việt Nam hiện nay; Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội, Kỷ yếu khoa học.

11. Đặng Thị Hoa (2012), Nghiên cứu về “Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội”,  Kỷ yếu hội thảo.

TIN KHÁC