Sự cần thiết ban hành Luật Dân số, mục đích và quan điểm xây dựng Luật

Dự thảo Luật Dân số 2025 được trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Luật được ban hành sẽ hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân số, bảo đảm phù hợp với bối cảnh già hóa dân số, biến động mức sinh, phân bố dân cư và chất lượng nguồn nhân lực.

I. Sự cần thiết ban hành Luật Dân số

1. Cơ sở chính trị, pháp lý

Việc xây dựng dự án Luật Dân số nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác dân số tại: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 21-NQ/TW); Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 42-NQ/TW); Kết luận số 149-KL/TW ngày 10/4/2025 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới(sau đây gọi là Kết luận số 149-KL/TW); Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.

Việc xây dựng dự án Luật Dân số căn cứ vào cơ sở pháp lý sau:
Khoản 2 Điều 14 và khoản 2 Điều 58 Hiến pháp năm 2013; Nghị quyết số 77/2025/UBTVQH15 ngày 21/4/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Điều chỉnh chương trình lập pháp năm 2025; Nghị quyết số 158/NQ-CP ngày 03/6/2025 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 5 năm 2025.

2. Cơ sở thực tiễn

Kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc, tích cực tham gia, phối hợp, nỗ lực triển khai công tác dân số của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị; sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức quốc tế, công tác dân số nước ta trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Chính sách, pháp luật về dân số từng bước được hoàn thiện.

Từ năm 2006 đến năm 2021, nước ta đã đạt và duy trì mức sinh thay thế[1], duy trì mức độ gia tăng dân số phù hợp, quy mô dân số năm 2024 đạt 101,1 triệu người2; Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, tạo ra những lợi thế to lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội; chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta không ngừng tăng lên3; tuổi thọ bình quân người Việt Nam ngày càng được nâng cao4. Kết quả đạt được thể hiện rõ quá trình chuyển chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển.

Qua tổng kết cho thấy, công tác dân số đang có các khó khăn, tồn tại cần phải giải quyết gồm:

- Một số quy định của pháp luật về dân số không còn phù hợp với tình hình thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác dân số trong tình hình mới, như: Pháp lệnh Dân số chưa có các giải pháp cụ thể để duy trì mức sinh thay thế, thích ứng với già hóa dân số và nâng cao chất lượng dân số.

- Thực trạng dân số Việt Nam hiện nay sinh những vấn đề cần phải kịp thời giải quyết như: Mức sinh trên toàn quốc có xu hướng giảm thấp hơn mức sinh thay thế; mất cân bằng giới tính khi sinh hiện vẫn ở mức cao so với ngưỡng cân bằng tự nhiên5; chất lượng dân số chưa đáp ứng yêu cầu.

Những nguyên nhân chính:

- Một số cấp uỷ đảng, chính quyền chưa nhận thức đúng và đầy đủ tính khó khăn, phức tạp, lâu dài của công tác dân số. Công tác truyền thông, vận động nâng cao nhận thức còn nhiều hạn chế nên đến nhiều nơi vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề bởi các định kiến giới.

- Pháp lệnh Dân số được ban hành từ năm 2003, từ đó đến nay nhiều vấn đề dân số thực tiễn nảy sinh, các quy định của Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp với thực tiễn, không đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành.

- Nguồn lực thực hiện công tác dân số chưa đáp ứng yêu cầu, ngân sách đầu tư chưa tương xứng.

- Tình trạng sinh con muộn, sinh ít hoặc không sinh con cùng với sức ép về kinh tế trong việc sinh, nuôi dạy con cũng là nguyên nhân làm ảnh hưởng tới mức sinh.

Kinh nghiệm quốc tế

Theo Báo cáo tổng quan kinh nghiệm quốc tế, các nhóm biện pháp chính liên quan đến công tác dân số gồm:

(1) Các biện pháp để tăng sinh và duy trì mức sinh thay thế gồm: (i) Cải thiện chế độ nghỉ thai sản, chế độ bố nghỉ chăm con, chế độ nghỉ phép không lương được bảo đảm công việc, thời giờ làm việc ngắn hơn hoặc bán thời gian; (ii) Thưởng cho việc sinh con, ưu đãi thuế, trợ cấp tiền mặt hàng tháng cho trẻ em; hỗ trợ thuê nhà, mua nhà ở; (iii) Tăng tính sẵn có của dịch vụ chăm sóc trẻ em, hỗ trợ chi phí chăm sóc trẻ em; (iv) Cải thiện hỗ trợ của nhà nước cho thụ tinh trong ống nghiệm, quy định bảo hiểm hiếm muộn, tăng tính sẵn có của dịch vụ thụ tinh trong ống nghiệm.

(2) Các biện pháp để giảm mất cân bằng giới tính khi sinh: (i) Quy định các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến lựa chọn giới tính; (ii) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; (iii) Hỗ trợ kinh tế và xã hội tạo điều kiện thuận lợi để gia đình áp lực về kinh tế và văn hóa dẫn đến quan niệm ưa thích con trai và (iv) Truyền thông cộng đồng nhằm thay đổi thói quen nhận thức của toàn xã hội về giá trị của phụ nữ và trẻ em gái.

(3) Các biện pháp để nâng cao chất lượng dân số: Một số quốc gia đã quy định và tổ chức tầm soát trước sinh và sơ sinh, kiểm tra sức khỏe trước khi kết hôn như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Phi líp pin, Thái Lan...

(4) Theo Quỹ Dân số Liên Hợp quốc (UNFPA) tính toán cứ 1 đô la đầu tư cho sức khỏe bà mẹ có thể mang lại 8,4 đô la lợi nhuận kinh tế; cứ 1 đô la đầu tư vào kế hoạch hóa gia đình có thể mang lại 10,1 đô la lợi nhuận kinh tế vào năm 20506.

Như vậy, tiếp thu bài học kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam vận dụng để xây dựng các nội dung, biện pháp trong thực hiện công tác dân số phù hợp với động thái dân số, tình hình kinh tế - xã hội.

II. Mục đích ban hành, quan điểm xây dựng dự án Luật dân số

1. Mục đích ban hành Luật Dân số

Tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để góp phần thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về dân số và khắc phục các hạn chế, tồn tại; đáp ứng yêu cầu công tác dân số phát triển trong tình hình mới.

2. Quan điểm xây dựng dự án Luật Dân số

a) Tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác dân số trong tình hình mới.

b) Lấy người dân làm trung tâm cho mọi hoạt động liên quan đến công tác dân số trên cơ sở tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ dân số và phù hợp với thông lệ quốc tế.

c) Kế thừa các quy định đang phát huy hiệu quả, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với các giá trị văn hóa dân tộc và con người Việt Nam; tiếp tục thực hiện chính sách xã hội hóa và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ dân số.

d) Tập trung đẩy mạnh nhanh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác dân số.

đ) Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, có tính khả thi, phù hợp với chuẩn mực của pháp luật quốc tế về dân số và bảo đảm yếu tố về bình đẳng giới.

 

 


[1] Từ năm 2022 đến năm 2024, mức sinh toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế.

2 TCTK, Kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ 01/4/2024.

3 Chỉ số HDI của Việt nam năm 2023 là 0,766- xếp thứ 93/193 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong giai đoạn 1990-2023, chỉ số HDI của Việt Nam tăng từ 0,499 lên 0,766, tăng 53,5% (UNDP, Báo cáo Phát triển con người tháng 5-2025).

4 Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam liên tục tăng, từ 72,8 tuổi (2009) lên 73,6 tuổi (2019) và 74,7 tuổi (2024), cao hơn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

5 Ngưỡng cân bằng tự nhiên là trong khoảng 104-106 bé trai trên 100 bé gái sinh ra sống.

6 Theo nghiên cứu của UNFPA năm 2022: UNFPA, 2022. Investing in three tranformative results: Realizing powerful returns.

TIN KHÁC