- Tin tức - Sự kiện
- Nghiên cứu-Trao đổi
Tình hình giáo dục đào tạo và lao động việc làm của các Dân tộc thiểu số
1. GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1 Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi
Tình hình đi học của trẻ em DTTS ngày càng được cải thiện, đặc biệt ở bậc tiểu học nhiều DTTS đã đạt hoặc vượt mục tiêu “đến năm 2025 học sinh trong độ tuổi học tiểu học trên 97%”. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch về thực trạng đi học ở bậc THCS và THPT giữa hai giới và giữa các vùng kinh tế - xã hội. Để hướng tới các mục tiêu của Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, cần chú trọng và có những chính sách trực tiếp tác động đến công tác giáo dục bậc THCS và THPT cho trẻ em DTTS.
Theo quy định của Luật Giáo dục, hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam được chia thành 3 cấp với những quy định cụ thể về thời gian và độ tuổi như sau: (1) Cấp tiểu học được thực hiện trong năm năm học từ lớp 1 đến lớp 5 và tuổi của học sinh vào học lớp 1 là 6 tuổi; (2) Cấp trung học cơ sở (THCS) được thực hiện trong bốn năm học từ lớp 6 đến lớp 9 và tuổi của học sinh vào học lớp 6 là 11 tuổi; (3) Cấp trung học phổ thông (THPT) được thực hiện trong ba năm học từ lớp 10 đến lớp 12 và tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi. Như vậy, tại thời điểm điều tra ngày 01/7/2024, dân số trong độ tuổi đi học phổ thông là những người sinh từ năm 2006 đến 2017: Dân số trong độ tuổi đi học tiểu học sinh từ năm 2013 đến năm 2017, dân số trong độ tuổi đi học THCS sinh từ năm 2009 đến năm 2012, dân số trong độ tuổi đi học THPT sinh từ năm 2006 đến năm 2008.
Kết quả điều tra 53 DTTS 2024 cho thấy, tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học của người DTTS là 103,2%, cấp THCS là 91,2% và THPT là 53,8%. Mức độ tiếp cận với giáo dục phổ thông của người DTTS ngày càng được cải thiện và thể hiện ở cả ba cấp học. So với năm 2015, tỷ lệ đi học chung cấp tiểu học tăng 4,6 điểm phần trăm, cấp THCS tăng 7,3 điểm phần trăm và cấp THPT tăng 12 điểm phần trăm, điều này cho thấy những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu về công tác dân tộc.
Ở cấp tiểu học, tỷ lệ đi học chung của người DTTS ở khu vực nông thôn cao hơn so với khu vực thành thị 1,4 điểm phần trăm (103,3% so với 101,9%), tuy nhiên càng ở cấp học cao hơn lại càng có sự khác biệt rõ rệt và có sự đảo chiều giữa hai khu vực, thể hiện ở tỷ lệ đi học chung cấp THCS và THPT khu vực nông thôn thấp hơn so với khu vực thành thị, cấp học THCS có tỷ lệ đi học khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị 2,6 điểm phần trăm (90,8% so với 93,4%), ở cấp THPT tỷ lệ này ở khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị 16,1 điểm phần trăm (51,8% so với 67,9%). Điều này có thể do ở các cấp học cao hơn thì tỷ lệ bỏ học của khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị.
Biểu 1: Tỷ lệ đi học chung và tỷ lệ đi học đúng tuổi theo cấp học, thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội năm 2024
Đơn vị tính: %
Tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học chung của 53 DTTS đạt 96,3%. Theo Kế hoạch triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Quyết định số 1657/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, mục tiêu đến năm 2025 tỷ lệ trẻ em nhập học đúng độ tuổi cấp tiểu học là trên 97%, như vậy để đạt được mục tiêu này, ngành giáo dục vẫn cần phải nỗ lực hơn nữa. Theo kết quả điều tra 53 DTTS năm 2024 thì tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học của một số dân tộc còn thấp như: Dân tộc Xtiêng (88,9%), Raglay (90,6%), Gia Rai (92,1%), Brâu (92,3%)…
Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp THCS và THPT của trẻ em DTTS lần lượt là 86,6% và 51,1%, và đều có sự tăng lên so với năm 2019, cấp THCS tăng 0,5 điểm phần trăm, cấp THPT tăng 4,1 điểm phần trăm. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đến năm 2025 “Tỷ lệ học sinh trong độ tuổi học trung học cơ sở trên 95%, học trung học phổ thông trên 60%” theo Kế hoạch triển khai của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện Quyết định số 1657/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, mục tiêu đến năm 2025 thì kết quả đạt được đến năm 2024 vẫn còn khoảng cách khá xa so với mục tiêu. Do đó, ngành Giáo dục cần có chính sách tập trung hơn nữa đến công tác giáo dục bậc THCS và THPT đối với trẻ em DTTS. Một số dân tộc có tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi ở hai cấp này thấp như: Dân tộc Xtiêng, Ba Na, Xinh Mun, Raglay, Gia Rai, La Ha, Kháng.
Tương tự như tỷ lệ đi học chung, ở các cấp học càng cao thì càng có sự khác biệt về tỷ lệ đi học đúng tuổi giữa trẻ em DTTS ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Ở cấp tiểu học tỷ lệ đi học đúng tuổi khu vực thành thị và nông thôn không có sự khác biệt nhiều (96,2% so với 96,3%), tuy nhiên ở cấp học THCS và THPT thì tỷ lệ đi học đúng tuổi khu vực thành thị càng cao hơn khu vực nông thôn, tương ứng là 2,9 điểm phần trăm và 15,7 điểm phần trăm.
1.2 Trẻ em dân tộc thiểu số ngoài nhà trường
Trẻ em DTTS ngoài nhà trường là trẻ em DTTS đang trong độ tuổi đi học phổ thông (sinh trong giai đoạn 2006 - 2017) nhưng chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học. Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường biểu thị số trẻ em DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học trong tổng dân số DTTS của độ tuổi này.
Tình hình giáo dục của trẻ em DTTS đã đạt được những thành tựu nhất định. Tỷ lệ trẻ em DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học giảm 1,8 điểm phần trăm, từ 15,5% năm 2019 xuống còn 13,7% năm 2024. Tuy nhiên, so với tỷ lệ chung (bao gồm cả dân tộc kinh) thì tỷ lệ này của riêng nhóm DTTS cao gấp 2 lần1. Tỷ lệ trẻ em trai DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học cao hơn trẻ em gái, mức chênh lệch là 1,2 điểm phần trăm (14,2% so với 13,1%). Có 13/53 DTTS có tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường trên 20%, trong đó tỷ lệ này cao nhất ở dân tộc Xtiêng (37,5%), tiếp đến là dân tộc Raglay (29,9%) và Xinh Mun (29,7%), Gia Rai (29,2%).
Tỷ lệ trẻ em DTTS ngoài nhà trường giữa các cấp học cũng có sự khác biệt khá rõ. Cấp học càng cao, tỷ lệ này càng tăng. Ở cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng gần 2 em không được đến trường; con số tương ứng ở cấp THCS là 9 em, ở cấp THPT là 45 em. Có đến 28/53 DTTS có tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học THPT nhưng không đi học chiếm trên 50% và đặc biệt tỷ lệ này rất cao ở nhóm dân tộc Mảng (89,2%), Xinh Mun (86,7%), Xtiêng (83,3%), La Hủ (83,2%) và Ba Na (80,1%). Ở tất cả các cấp học và hầu hết các DTTS, tình trạng trẻ em ngoài nhà trường của trẻ em trai cao hơn trẻ em gái.
1.3 Tình hình biết đọc biết viết của người dân tộc thiểu số
Tình hình biết đọc biết viết chữ phổ thông
Biết đọc biết viết chữ phổ thông là khả năng đọc và viết một đoạn văn đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày bằng tiếng phổ thông (tiếng Kinh). Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông là một trong những chỉ tiêu chung phản ánh kết quả của giáo dục đối với đồng bào DTTS, được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm những người DTTS biết đọc biết viết chữ phổ thông của một độ tuổi nhất định trong tổng dân số DTTS của độ tuổi đó.
Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024, tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông của người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 84,6%, tăng 3,7 điểm phần trăm so với năm 2019, mức tăng này cao gấp hai lần so với giai đoạn 2015 - 2019 (3,7 điểm phần trăm so với 1,7 điểm phần trăm). Mặc dù tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông của người DTTS có nhiều cải thiện so với giai đoạn trước, tuy nhiên tỷ lệ này chưa đạt mục tiêu “Đến năm 2025 người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông trên 90%” của Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. So với tỷ lệ biết đọc biết viết chung của toàn bộ dân số thì tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông của người DTTS thấp hơn 12 điểm phần trăm (84,6% so với 96,6%20).
Ở hầu hết các DTTS, tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông đều ghi nhận sự tăng lên, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn khá thấp ở nhiều DTTS, một số dân tộc có gần hai phần ba dân số từ 15 tuổi trở lên không biết đọc biết viết chữ phổ thông như: La Hủ (56,3%), Lự (55,4%), Cơ Lao (57,0%), Brâu (57,6%), Mảng (57,8%), Mông (65,7%), Raglay (65,9%).
Có sự khác biệt về giới và khu vực thành thị, nông thôn về khả năng đọc thông viết thạo chữ phổ thông của người DTTS. Nam DTTS có tỷ lệ đọc thông viết thạo chữ phổ thông cao hơn nữ DTTS 8,1 điểm phần trăm (88,7% so với 80,6%), khoảng cách này đã được rút gắn hơn so với năm 201921. Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông ở thành thị cao hơn so với khu vực nông thôn 7,3 điểm phần trăm (90,9% so với 83,5%).
Hình 1: Tỷ lệ biết đọc biết viết chữ phổ thông của người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên, giai đoạn 2015 -2024
Đơn vị tính: %
Mặc dù khả năng biết đọc biết viết chữ phổ thông của người DTTS có cải thiện, tuy nhiên vẫn còn 12,3% (tương ứng với hơn 1 triệu người DTTS) trong độ tuổi lao động mù chữ (không biết đọc biết viết chữ phổ thông), tình trạng này thậm chí còn nghiêm trọng hơn ở nữ DTTS trong độ tuổi lao động với gần 15% (tương ứng 3,6 triệu người) không biết đọc biết viết chữ phổ thông. Điều này tạo ra rào cản trong phát triển kinh tế - xã hội của vùng DTTS, bởi trong thời kỳ của hội nhập và khoa học, kỹ thuật hiện nay đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết, chuyên môn, kỹ năng; biết đọc, biết viết chỉ là yêu cầu tối thiểu. Hầu hết những người không biết chữ chỉ có thể tham gia ở các lĩnh vực nông nghiệp hay những công việc chân tay. Ngoài ra, họ sẽ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp thu được các kiến thức khoa học kỹ thuật mới, dẫn đến năng suất lao động thấp, thu nhập không cao, nguy cơ đói nghèo luôn tiềm ẩn; quyền kinh tế (quyền tham gia vào nền kinh tế thị trường, quyền có việc làm và phát triển thị trường lao động…) cũng vì thế mà bị thu hẹp.
Tái mù chữ
Người tái mù chữ: Là những người đã từng biết chữ nhưng đến thời điểm hiện tại không thể đọc hoặc viết được một câu đơn giản bằng tiếng Việt. Tỷ lệ người DTTS tái mù chữ được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm những người DTTS tái mù chữ của một độ tuổi nhất định trong tổng dân số DTTS của độ tuổi đó.
Mặc dù tình hình đi học nói chung của người DTTS có nhiều cải thiện trong thời gian qua, tuy nhiên vẫn còn 1,04% (tương ứng với 108,2 nghìn người DTTS từ 15 tuổi trở lên) tái mù chữ, tỷ lệ này ở nữ DTTS cao hơn so nam DTTS (1,16% so với 0,93%), tỷ lệ tái mù cao nhất ở vùng Tây Nguyên (1,45%) và một số dân tộc tỷ lệ này trên 2% như: Gia Rai (2,29%), Raglay (2,27%), Chu Ru (2,14%).
Hình 2: 10 dân tộc thiểu số có tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên tái mù chữ cao nhất năm 2024
Đơn vị tính: %
Tuổi càng cao thì tỷ lệ tái mù chữ càng tăng, ở nhóm tuổi dưới 40 thì tỷ lệ này dao động từ 0,2% đến 0,7%, đến nhóm 40 tuổi trở lên thì tỷ lệ tái mù chữ từ 1,2% trở lên và cao nhất ở nhóm 60 tuổi trở lên là 2,66%. Ở độ tuổi càng cao càng có sự khác biệt về tỷ lệ tái mù chữ giữa nam DTTS và nữ DTTS. Ở nhóm tuổi 15-19 tỷ lệ tái mù chữ của nam DTTS cao hơn nữ DTTS, tuy nhiên đến nhóm tuổi từ 25 trở lên thì tỷ lệ này ở nữ DTTS lại cao hơn nam DTTS và khoảng cách này ngày càng tăng.
1.4 Trình độ giáo dục cao nhất đạt được
Theo kết quả điều tra 53 DTTS năm 2024, tỷ lệ người DTTS có trình độ từ sơ cấp trở lên chiếm 15,5% tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên, tỷ lệ này thấp hơn 13,9 điểm phần trăm so với mức chung của cả nước. So với năm 2019, tỷ lệ này tăng 3,9 điểm phần trăm. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ dưới tiểu học giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2019 (25,1% so với 25,6%), điều này cho thấy những nỗ lực của Việt Nam trong việc nâng cao trình độ giáo dục của người DTTS.
Giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn có sự khác biệt khá lớn về trình độ học vấn cao nhất đạt được của người DTTS. Tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên có trình độ học vấn thấp (chưa tốt nghiệp tiểu học, tốt nghiệp tiểu học) ở khu vực thành thị thấp hơn so với nông thôn 11,3 điểm phần trăm; ngược lại, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có trình độ giáo dục từ sơ cấp trở lên ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn 15,4 điểm phần trăm.
Vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng đạt tỷ lệ người có trình độ giáo dục từ sơ cấp trở lên cao nhất, lần lượt là 21,4% và 14,7%. Ngược lại, hai vùng có tỷ lệ này thấp nhất là Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long, lần lượt là 6,2% và 9,8%.
Biểu 2: Tỷ lệ người dân tộc thiểu số từ 15 tuổi trở lên theo trình độ cao nhất đạt được, thành thị, nông thôn và giới tính năm 2024
Đơn vị tính: %
1.5 Số năm đi học bình quân
Số năm đi học bình quân được tính bằng tổng số năm đi học của dân số từ 25 tuổi trở lên chia cho tổng dân số từ 25 tuổi trở lên.
Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024 cho thấy, số năm đi học bình quân của người DTTS là 7 năm, thấp hơn số năm đi học bình quân chung của cả nước 2,6 năm. Trong đó, số năm đi học bình quân của nam DTTS cao hơn nữ DTTS 0,9 năm (7,4 năm so với 6,5 năm), khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn 2,4 năm (9,0 năm so với 6,6 năm). Người DTTS ở vùng Đồng bằng sông Hồng có số năm đi học bình quân cao nhất (8,3 năm) và thấp nhất ở vùng Tây Nguyên (5,6 năm) và vùng Đồng bằng sông Cửu Long (5,9 năm).
Biểu 3: Số năm đi học bình quân của người DTTS từ 25 tuổi trở lên theo thành thị, nông thôn, giới tính và vùng kinh tế - xã hội năm 2024
Đơn vị tính: Năm
Có 35/53 DTTS có số năm đi học bình quân thấp hơn mức chung của 53 DTTS, đặc biệt một số dân tộc có số năm đi học bình quân rất thấp (dưới 5 năm) như: dân tộc Gia Rai và Ba Na (4,7 năm), dân tộc Kháng, Mông và La Ha (4,3 năm), dân tộc Xinh Mun (4,1 năm), dân tộc Raglay và Xtiêng (3,7 năm), dân tộc Lự (3,6 năm), dân tộc Mảng và Cơ Lao (3,5 năm), dân tộc Brâu (3,2 năm) và thấp nhất là dân tộc La Hủ (3,0 năm). Như vậy, số năm đi học bình quân dân số 25 tuổi trở lên của những dân tộc này chưa đạt được trình độ thấp nhất là giáo dục tiểu học.
2. LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
Điều tra 53 DTTS năm 2024 thu thập thông tin về tình trạng việc làm của người DTTS từ 15 tuổi trở lên nhằm đánh giá mức độ tham gia thị trường lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lao động DTTS của nền kinh tế. Thông tin về việc làm của người lao động DTTS là cơ sở để xây dựng, hoạch định các chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào DTTS như tạo việc làm, giảm nghèo, nâng cao giáo dục và đào tạo nghề, đảm bảo an sinh xã hội. Từ năm 2021, Cục Thống kê áp dụng các chỉ tiêu thống kê về lao động việc làm theo khung khái niệm mới ICLS19, vì vậy các chỉ tiêu thống kê về lao động và việc làm trong báo cáo này được tính toán theo khung khái niệm ICLS19.
2.1 Lực lượng lao động
Lực lượng lao động là bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng cung cấp sức lao động để sản xuất của cải vật chất và dịch vụ nhằm mục đích tạo thu nhập cho cá nhân hoặc gia đình. Nói cách khác, lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm hoặc thất nghiệp trong thời kỳ tham chiếu.
Cơ cấu lực lượng lao động
Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024, có 7,5 triệu người DTTS từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động; trong đó, nữ giới chiếm 47,3%. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 1.110,5 nghìn người, chiếm 14,9% tổng số lực lượng lao động DTTS. Nhóm dân số tham gia lực lượng lao động nhiều nhất là 25-54 tuổi, chiếm 68,7% lực lượng lao động DTTS.
Tỷ trọng nữ trong lực lượng lao động DTTS của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn, 48,6% so với 47,1%. Tỷ trọng này thấp nhất tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (43,7%) và cao nhất tại Tây Nguyên (49,2%).
Biểu 4: Phân bố lực lượng lao động dân tộc thiểu số theo thành thị, nông thôn và vùng kinh tế - xã hội năm 2024
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là một trong những số đo chung nhất về mức độ tham gia lực lượng lao động của dân số. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người DTTS được định nghĩa là phần trăm người DTTS thuộc lực lượng lao động chiếm trong tổng dân số DTTS từ 15 tuổi trở lên.
Có 72,2% người DTTS tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam DTTS cao hơn nữ DTTS 8,7 điểm phần trăm, của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn 1,9 điểm phần trăm. Tại cả khu vực thành thị và khu vực nông thôn, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam DTTS đều cao hơn của nữ DTTS và mức chênh lệch này tại khu vực thành thị và khu vực nông thôn gần bằng nhau, tương ứng là 8,9% và 8,6%.
Biểu 5: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người dân tộc thiểu số theo giới tính và thành thị, nông thôn năm 2024
Đơn vị tính: %
Trong số các DTTS có quy mô lớn (trên 1 triệu người), có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giữa một số dân tộc. Trong nhóm này, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp nhất thuộc về dân tộc Tày (66,7%) và cao nhất là dân tộc Thái (76,4%). Có 4/6 DTTS thuộc nhóm này có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp hơn mức chung của 53 DTTS, cụ thể là: Khmer (73,3%), Mông (70%), Mường (69,1%), Nùng (67,8%), Tày (66,7%).
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
Lực lượng lao động là người DTTS được đào tạo chuyên môn kỹ thuật (viết gọn là CMKT) từ sơ cấp trở lên ở nước ta vẫn còn thấp, chỉ chiếm 14,3%. Đây là hạn chế của lực lượng lao động là người DTTS trong việc tiếp cận thị trường lao động và nâng cao năng suất lao động tạo thu nhập.
Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của nam DTTS cao hơn nữ DTTS (16,3% so với 12,1%), của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn (29,3% so với 11,7%). Trong số lực lượng lao động là người DTTS có trình độ CMKT, có 36,5% đã được đào tạo trình độ từ đại học trở lên. Con số này ở khu vực thành thị cao gấp 1,7 lần ở khu vực nông thôn, tương ứng với 51,7% và 29,9%. Điều này có nghĩa là ở khu vực thành thị, cứ 10 người DTTS tham gia lực lượng lao động đã được đào tạo CMKT thì có khoảng 5 người có trình độ từ đại học trở lên; trong khi đó, ở khu vực nông thôn, con số này tương đương khoảng 3 người.
Hình 3: Tỷ lệ lực lượng lao động dân tộc thiểu số đã qua đào tạo từ sơ cấp trở lên theo giới tính và thành thị, nông thôn năm 2024
Đơn vị tính: %
2.2 Việc làm
Việc làm là vấn đề thiết yếu của phần đông dân số, không chỉ đem lại thu nhập mà còn đem lại nhiều lợi ích khác như giảm nghèo, cân bằng cuộc sống, góp phần tạo dựng những chuyển đổi tích cực trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu việc làm và đặc trưng về việc làm của người DTTS có { nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho người DTTS trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương.
Lao động có việc làm
Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024 cho thấy, tỷ lệ lao động có việc làm trên tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 68,9%, tương đương 7,1 triệu người. Tỷ lệ này ở nam DTTS cao hơn so với nữ DTTS (73,3% so với 64,6%). Phần lớn lao động DTTS có việc làm là ở nhóm tuổi 15-54 (86,7%) và chủ yếu cư trú ở nông thôn (84,8%).
Biểu 6. Phân bố lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo giới tính và thành thị, nông thôn năm 2024
Chỉ có 14,6% lao động DTTS có việc làm đã qua đào tạo, còn lại đến 85,4% không có trình độ CMKT. Tỷ trọng lao động DTTS có việc làm không có CMKT ở khu vực nông thôn cao gấp 1,3 lần ở khu vực thành thị, tương ứng 88,1% và 70,4%.
Trong số các DTTS có quy mô lớn (trên 1 triệu người), có 4/6 DTTS có tỷ lệ lao động DTTS có việc làm không có CMKT thấp hơn mức chung của 53 DTTS (tức là thấp hơn mức 85,4%). Cụ thể là: Tày (71,8%), Nùng (82,7%), Mường (83,6%), Thái (85,2%).
Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế
Tỷ trọng người DTTS có việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 63,5%, vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất so với hai khu vực còn lại và cao hơn nhiều so với tỷ trọng này của lao động có việc làm cả nước.
Biểu 7: Tỷ trọng lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo khu vực kinh tế, Điều tra 53 DTTS năm 2024
Đơn vị tính: %

Có sự khác biệt lớn về cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế giữa các DTTS. Trong số 06 DTTS có quy mô lớn (trên 1 triệu người), dân tộc Khmer có tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản thấp nhất (36,8%), trong khi đó tỷ trọng này ở dân tộc Mông là cao nhất (88,4%) – cao hơn mức chung của các dân tộc khác (tức là cao hơn 69,5%) và cao hơn mức chung của 53 DTTS (tức là cao hơn 63,5%).
Cơ cấu lao động có việc làm theo nghề nghiệp
Kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024 cho thấy, nhóm “Lao động giản đơn” vẫn thu hút nhiều lao động DTTS nhất với tỷ lệ 50,8% và chủ yếu là lao động giản đơn trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (84,7% lao động giản đơn làm việc trong khu vực này). Tuy nhiên, so với năm 2019, tỷ trọng lao động làm công việc giản đơn giảm 17,8 điểm phần trăm.
Trong 09 nhóm nghề, người DTTS làm “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” chiếm tỷ trọng thấp nhất, chiếm 0,7%. Đa phần trong số họ là nam giới với tỷ lệ 62%, chỉ có 38% là nữ giới. Nhóm lao động làm công việc “CMKT bậc cao” và “CMKT bậc trung” chiếm 4,4% tổng số lao động DTTS có việc làm, tăng 1,1 điểm phần trăm so với năm 2019.
Biểu 8: Tỷ trọng lao động dân tộc thiểu số có việc làm theo giới tính và nghề nghiệp năm 2024
Đơn vị tính: %
Trong số các DTTS có quy mô lớn (trên 1 triệu người), có 2/6 DTTS có tỷ trọng lao động có việc làm là “Lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị” cao hơn mức chung của 53 DTTS thiểu số là: Tày (1,5%), Thái (0,9%). Trong khi đó, có 62,5% người dân tộc Mông và 61,5% người dân tộc Thái có việc làm thuộc nhóm “Lao động giản đơn”, cao hơn nhiều so với mức chung của 53 DTTS (tức là cao hơn 50,8%).
Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế làm việc
Vị thế việc làm của người lao động được chia thành năm nhóm: “Chủ cơ sở”, “Tự làm”, “Lao động gia đình”, “Làm công ăn lương” và “Xã viên hợp tác xã”. Số lao động “Tự làm” và “Lao động gia đình” chiếm khoảng hai phần ba tổng số người DTTS có việc làm; trong đó, “Lao động gia đình” không được trả công trả lương chiếm 28,2%. Người DTTS làm “Chủ cơ sở” chiếm tỷ trọng rất nhỏ (0,8%).
Biểu 9: Vị thế việc làm của lao động dân tộc thiểu số theo giới tính và thành thị, nông thôn năm 2024
Đơn vị tính: %
Có sự khác biệt về vị thế việc làm theo giới tính. Tỷ lệ nam DTTS trong nhóm “Chủ cơ sở”, “Làm công hưởng lương” và “Tự làm” cao hơn so với nữ DTTS. Tỷ lệ lao động nữ DTTS tham gia nhóm “Lao động gia đình” - nhóm lao động yếu thế là 39,0%, cao hơn 2,1 lần so với tỷ lệ lao động nam DTTS thuộc nhóm này (18,6%).
Vị thế việc làm của lao động DTTS ở khu vực thành thị và khu vực nông thôn có sự khác biệt theo hướng lao động khu vực thành thị có vị thế việc làm cao hơn ở các nhóm công việc ổn định hơn: 1,7% lao động khu vực thành thị làm việc với vị thế chủ cơ sở trong khi con số này ở khu vực nông thôn chỉ là 0,6%; 58,8% lao động khu vực thành thị làm việc với tư cách là người “Làm công hưởng lương”, trong khi con số này ở khu vực nông thôn chỉ là 32,8%. Hơn 93,3% người có việc làm là “Lao động gia đình” hiện đang cư trú ở khu vực nông thôn.
2.3 Thất nghiệp
Thất nghiệp là những người không có việc làm, có các hoạt động tìm kiếm việc làm và sẫn sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham chiếu. Thông tin về tình trạng thất nghiệp của người DTTS giúp đánh giá cung và cầu của thị trường lao động, đo lường mức độ sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển để ban hành và điều chỉnh các chính sách lao động việc làm liên quan tới người DTTS.
Theo kết quả Điều tra 53 DTTS năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp của người DTTS từ 15 tuổi trở lên là 4,6%. Tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn cao hơn gần gấp 2 lần so với khu vực thành thị (tương ứng là 4,9% và 2,8%). Sự khác biệt về cơ hội tiếp cận thông tin về việc làm, trình độ CMKT và khả năng lựa chọn công việc linh hoạt của người lao động có thể là nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này.
Nữ DTTS là nhóm yếu thế hơn nam DTTS trong tiếp cận việc làm khi mà tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới cao hơn nam giới (4,9% so với 4,3%).
3. KẾT LUẬN
Kết quả cuộc Điều tra 53 DTTS năm 2024 đã cung cấp bức tranh tổng thể về kinh tế-xã hội nói chung và về giáo dục đào tạo, lao động việc làm của 53 DTTS nói riêng. Tỷ lệ biết chữ đã tăng cao, song chênh lệch về tiếp cận giáo dục, tỷ lệ bỏ học sớm và trình độ học vấn giữa các dân tộc và giữa vùng dân tộc thiểu số với cả nước vẫn còn đáng kể. Tỷ lệ lao động DTTS vẫn tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, đáng mừng là một bộ phận dân cư chuyển dịch sang các ngành nghề phi nông nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng sống.
Thông tin từ Điều tra 53 DTTS năm 2024 là nguồn dữ liệu quan trọng, góp phần xây dựng các chương trình, đề án và chính sách nhằm đảm bảo quyền lợi, cải thiện điều kiện sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững và bao trùm cho toàn bộ xã hội.
