- Tin tức - Sự kiện
- Nghiên cứu-Trao đổi
Truyền thông về giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống góp phần nâng cao chất lượng dân số
Những năm gần đây, tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết đã giảm nhưng tỷ lệ tảo hôn vẫn còn cao tại một số vùng miền, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Do hủ tục này, nhiều trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết trẻ em, phụ nữ không được nói lên tiếng nói của mình mà bị áp đặt, ép buộc. Vì vậy, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, hiểu biết, thay đổi hành vi của người dân, thông qua các hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật tại cơ sở nhằm tăng cường nhận thức về quyền và năng lực thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ, trẻ em.
Ảnh minh họa
Phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiểu biết và nhận thức pháp luật cho người dân, góp phần thúc đẩy ý thức chấp hành và tuân thủ pháp luật. Trong thời gian qua, hoạt động truyền thông, phổ biến pháp luật đã có nhiều đóng góp trong việc nâng cao nhận thức, hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật, bảo đảm và thực hiện các quyền con người, quyền công dân, trong đó có việc nâng cao nhận thức về quyền kết hôn, quyền được bảo vệ của trẻ em trong hôn nhân và gia đình cũng như những tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết, bạo lực gia đình đối với trẻ em.
Hiện nay lực lượng hòa giải viên ở cơ sở, tuyên truyền viên pháp luật và người có uy tín trong cộng đồng đã được xây dựng, phát triển rộng khắp tại thôn, làng, bản, ấp, xã, phường, thị trấn và giữ vai trò quan trọng trong công tác truyền thông, phổ biến, đưa pháp luật đến người dân. Việc cung cấp kiến thức về tảo hôn, hôn nhân cận huyết là một trong những nỗ lực của cơ quan chức năng nhằm nâng cao năng lực, bao gồm kiến thức pháp luật, kỹ năng truyền thông, phổ biến pháp luật và hỗ trợ hòa giải viên, tuyên truyền viên pháp luật, người có uy tín trong cộng đồng thực hiện phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người dân nói chung và người DTTS nói riêng, từ đó góp phần vận động, giáo dục việc giảm thiểu, xóa bỏ tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
1. Tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyết và một số nguyên nhân
1.1 Tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Tảo hôn, hôn nhân cận huyết là hủ tục đã xuất hiện từ rất lâu nhưng đến nay vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng miền ở nước ta và để lại những hậu quả, tác động không nhỏ tới sự phát triển chung của xã hội, cộng đồng cũng như những người có liên quan, trong đó có trẻ em, phụ nữ.
Theo kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, vùng đồng bào DTTS là địa bàn có tỷ lệ tảo hôn cao hơn, tập trung ở khu vực Tây Nguyên, miền núi phía Bắc. Cứ 10 người DTTS thì có 02 người tảo hôn. Dân tộc Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất với 51,5% dân số kết hôn trước tuổi quy định, tiếp đến là dân tộc Cơ Lao (47,8%), Mảng (47,2%), Xinh Mun (47,2%). Tỷ lệ tảo hôn vẫn ở mức cao tại những vùng tập trung nhiều đồng bào DTTS sinh sống như Tây Nguyên với hơn một phần tư số người bước vào hôn nhân khi chưa đủ tuổi kết hôn (27,5%), tiếp đó là trung du miền núi phía Bắc (24,65). Tỷ lệ tảo hôn của nữ DTTS luôn cao hơn nam ở tất cả các vùng, ngoại trừ đồng bằng Sông Hồng. Đáng chú ý là chỉ có 1,1% người DTTS tảo hôn có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong khi tỷ lệ này ở những người không tảo hôn cao gấp gần 18 lần (18,8%); 31/53 DTTS có tình trạng 100% số người tảo hôn không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Điều này cho thấy tuyệt đại đa số những người DTTS rơi vào tình trạng tảo hôn có trình độ hạn chế, tảo hôn có thể dẫn đến khó khăn về kinh tế và nguy cơ đói nghèo, khó tiếp cận với các quyền và cơ hội học tập, nâng cao trình độ và phát triển bản thân.
Hôn nhân cận huyết cũng có sự gia tăng về tỷ lệ ở một số dân tộc như La Chí (năm 2014 là 10,1% thì năm 2018 tăng 30,8%), Bru Vân Kiều (năm 2014 là 14,3% thì năm 2018 tăng 28,6%), Lô Lô (năm 2014 là 8,3% thì năm 2018 tăng 22,4%), Gia Rai (năm 2014 là 9,1% thì năm 2018 tăng 14,6%), La Ha (năm 2014 là 7,6% thì năm 2018 tăng 11,0%). Về độ tuổi sinh con của phụ nữ DTTS thì tỷ suất sinh đặc trưng theo độ tuổi của dân tộc Mông đạt mức khá cao ngay ở nhóm tuổi trẻ từ 15-19 tuổi với 200 con/1000 phụ nữ. Phụ nữ dân tộc Mông sinh con rất sớm, đa phần sinh con ở độ tuổi từ 15-24. Về tỷ suất chết của trẻ em DTTS dưới 01 tuổi thì dân tộc Mông là 28,47 (trẻ em dưới 01 tuổi chết/1000 trẻ sinh sống), Ba Na (28,87), Thái (24,2), trong khi tỷ suất trung bình của 53 DTTS là 22,13.
1.2. Một số nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Thực trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn còn xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân3 như sau:
- Đời sống người dân còn nhiều khó khăn do trình độ dân trí không đồng đều, hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội chưa phát triển, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, thu nhập là những vấn đề còn có tác động, ảnh hưởng tới người dân.
- Một số hủ tục, tập quán, quan niệm lạc hậu về hôn nhân và gia đình là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết như tục hứa hôn, không kết hôn với người dân tộc khác...
- Nhiều trường hợp do gia đình cần có người để làm việc hoặc bản thân trẻ em đã nghỉ học nhưng không có việc làm nên đã quyết định kết hôn sớm; đối với những trường hợp này thì cộng đồng chưa có phản ứng mạnh mẽ mà vẫn coi đó là chuyện riêng của mỗi gia đình.
- Nhiều trường hợp mang thai ngoài ý muốn dẫn đến các em phải nghỉ học, kết hôn sớm do cha mẹ, gia đình, nhà trường chưa chú trọng tới việc quản lý, giáo dục; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa cha mẹ phụ huynh, giáo viên, nhà trường; ảnh hưởng từ các vấn đề tiêu cực của mạng xã hội, lối sống buông thả, sống thử...
- Công tác truyền thông, PBGDPL tại nhiều địa phương còn hạn chế do đa số các trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết có nhiều khó khăn về kinh tế và tiếp cận với văn hóa, giáo dục; còn gặp rào cản về ngôn ngữ (không biết hoặc không thông thạo tiếng phổ thông); thiếu nguồn lực triển khai; hình thức, nội dung thực hiện chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn...
- Chính quyền địa phương các cấp có lúc, có nơi chưa quan tâm đúng mức, chưa sâu sát với người dân ở cơ sở để kịp thời đưa các biện pháp giảm thiểu tình trạng này xảy ra.
Thời gian vừa qua do dịch bệnh covid, trẻ em nghỉ học ở nhà nên tình trạng tảo hôn đã gia tăng.
2. Tác hại của tảo hôn, hôn nhân cận huyết
2.1. Tảo hôn dẫn đến một số tác hại như
- Về tâm sinh lý: Dễ bị ảnh hưởng tới tâm lý, đối với bạn nữ có thể bị sang chấn hoặc gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần.
- Về thể chất, sức khỏe sinh sản: Bé gái kết hôn sớm sẽ gặp nguy cơ cao về mang thai ngoài ý muốn, sẩy thai, nhiễm độc thai nghén, nạo phá thai và các bệnh tật khác; nguy cơ tử vong cao hơn khi mang thai và sinh con.
Trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng tảo hôn dễ bị sinh non, thiếu cân, thấp còi, suy dinh dưỡng, thậm chí tử vong và đây là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, tỷ lệ trẻ em tử vong dưới 01 tuổi.
- Về quyền, lợi ích, cơ hội học tập, phát triển: Các em không còn hoặc giảm cơ hội đến trường học, tăng tỷ lệ bỏ học cũng như học tập, nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Cơ hội được nghỉ ngơi, tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí cũng bị ảnh hưởng khi các em kết hôn trước tuổi quy định.
- Về kinh tế - xã hội: Các em còn trẻ, chưa có hoặc chưa đủ khả năng tìm kiếm hoặc làm các công việc tạo thu nhập cao để đóng góp kinh tế cho gia đình, dẫn đến tăng nguy cơ đói nghèo, lạc hậu, tác động tới chất lượng cuộc sống của gia đình và cả hai bên nam, nữ.
- Về xây dựng, chăm sóc, gìn giữ gia đình hạnh phúc: Ở các cặp vợ chồng tảo hôn, các xung đột, mâu thuẫn hoặc ly hôn dễ xảy ra hơn do còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm chăm sóc, dạy dỗ con cái, xây dựng, nuôi dưỡng gia đình hoà thuận, hạnh phúc.
2.2. Hôn nhân cận huyết dẫn đến một số tác hại như
- Con cái, trẻ em được sinh ra từ các cặp vợ chồng có cùng dòng máu trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời có tỷ lệ dị dạng, dị tật cao hoặc nguy cơ mắc các bệnh: bạch tạng, mù màu, da vảy cá, tan máu bẩm sinh, bệnh máu trắng...
- Có nguy cơ suy thoái giống nòi, triệt tiêu một tộc người nào đó khi chỉ kết hôn trong phạm vi tộc người đó mà không có hôn nhân đa dạng giữa các tộc người với nhau.
- Làm đảo lộn các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam, ảnh hưởng đến trật tự gia đình, truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
3. Các quy định, luật pháp, quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết
3.1. Quy định pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Tảo hôn được hiểu là việc lấy vợ, lấy chồng khi một hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình (khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Theo đó, tảo hôn được xác định trong trường hợp lấy vợ, lấy chồng khi nam chưa đủ 20 tuổi và nữ chưa đủ 18 tuổi hoặc 1 trong 2 bên chưa đủ tuổi kết hôn.
- Việc quy định bên nam phải từ “đủ” 20 tuổi trở lên, bên nữ phải từ “đủ” 18 tuổi trở lên mới có quyền kết hôn, mới đủ tuổi kết hôn thể hiện ý nghĩa tiến bộ, đảm bảo sự phát triển, trưởng thành về thể chất, tâm sinh lý cho cả nam và nữ trước khi kết hôn.
- Ngoài đủ độ tuổi nêu trên, khi kết hôn, bên nam và bên nữ còn phải tuân thủ các điều kiện về sự tự nguyện quyết định việc kết hôn; không bị mất năng lực hành vi dân sự; không thuộc trường hợp cấm kết hôn (kết hôn giả tạo, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn...). Nếu vi phạm các điều kiện kết hôn nêu trên thì việc kết hôn đó là trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Hôn nhân cận huyết là việc kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời. Việc kết hôn này bị pháp luật cấm bởi các bên có quan hệ huyết thống với nhau.
- Người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Ví dụ: Bố đẻ và con gái, mẹ đẻ và con trai, ông nội và cháu gái, ông ngoại và cháu gái... là những người có quan hệ huyết thống, cụ thể là có cùng dòng máu trực hệ. Những trường hợp này mà kết hôn được xác định là hôn nhân cận huyết.
- Người có họ trong phạm vi ba đời là những người từ một gốc sinh ra, bao gồm cha mẹ (đời thứ nhất), anh chị em ruột cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha (đời thứ hai), anh chị em con cô, con cậu, con chú, con bác, con dì (đời thứ ba).
Hành vi vi phạm về tảo hôn, hôn nhân cận huyết có thể bị xử lý bằng xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
- Hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn; cưỡng ép ly hôn hoặc lừa dối ly hôn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng
- Hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng
- Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
- Tội tổ chức tảo hôn: Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
- Tội loạn luân: Người nào giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
3.2. Các quyền của trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi được bảo vệ khỏi kết hôn sớm
Chuẩn mực quốc tế
Theo các chuẩn mực quốc tế, kết hôn trẻ em, hay còn gọi là kết hôn sớm là việc kết hôn trong đó ít nhất một trong hai bên là người dưới 18 tuổi. Kết hôn trẻ em được coi là một hình thức cưỡng bức kết hôn bởi vì một hoặc cả hai bên là người chưa đủ năng lực để tự do bày tỏ sự đồng thuận đầy đủ trên cơ sở có đầy đủ thông tin.4 Kết hôn trẻ em không chỉ bao gồm việc kết hôn chính thức mà cả những hình thức kết hôn không chính thức hay chung sống như vợ chồng.
Kết hôn trẻ em vi phạm các quyền con người cơ bản của trẻ em và là một hình thức xâm hại trẻ em. Điều 19.1. Công ước Quyền trẻ em (CƯQTE) yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị đánh đập hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao nhãng chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả sự xâm phạm tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, của một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.
Điều 24.3. của Công ước yêu cầu các Quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp và hiệu quả nhằm xóa bỏ những tập tục có hại cho sức khỏe của trẻ em. Theo giải thích của Ủy ban Quyền trẻ em của Liên hợp quốc, kết hôn trẻ em và cưỡng ép kết hôn là hai trong số những tập tục có hại phải được xóa bỏ.
Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ quy định rằng “việc hứa hôn và kết hôn của trẻ em phải bị coi là không có hiệu lực pháp lý, và tất cả các hành động cần thiết phải được tiến hành, kể cả biện pháp lập pháp, nhằm quy định tuổi tối thiểu có thể kết hôn và để bảo đảm việc kết hôn phải được đăng ký một cách chính thức và bắt buộc” (Điều 16(2)).
Pháp luật Việt Nam
Việc tổ chức, cưỡng ép người dưới 18 tuổi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác vi phạm các quy định các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà Hiến pháp (2013) , đặc biệt là các quyền:
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (khoản 1 Điều 20).
- Quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 23).
- Quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc (Điều 33).
- Quyền kết hôn, ly hôn theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ (khoản 1 Điều 36).
- Quyền học tập (Điều 39).
Việc tổ chức, cưỡng ép trẻ em kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác cũng vi phạm các quyền trẻ em được quy định tại Luật Trẻ em (2016), bao gồm:
- Quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe (Điều 14).
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện (Điều 15).
-Quyền được giáo dục, học tập (Điều 16).
- Quyền vui chơi, giải trí (Điều 17).
- Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động, bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt (các Điều 25, 26, 27, 28).
Luật Trẻ em nghiêm cấm các hành vi mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em, và các hành vi tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn (các khoản 2, 3, 4, Điều 6).
3.3. Trách nhiệm, nghĩa vụ của cha mẹ, thành viên gia đình, những người có liên quan về bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khỏi mọi hành vi xâm hại, bao gồm cả nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết
Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2014)
Luật Hôn nhân và gia đình quy định trách nhiệm của cha mẹ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên để bảo đảm sự phát triển lành mạnh và bảo đảm các quyền của con chưa thành niên, đặc biệt là:
- Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội (khoản 1 Điều 69).
- Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên (khoản 2 Điều 69).
- Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (khoản 4 Điều 69).
- Giáo dục, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập (khoản 1 Điều 72).
- Hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con (khoản 2 Điều 72).
Luật Trẻ em (năm 2016)
Theo Luật Trẻ em, cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục trẻ em; dành điều kiện tốt nhất theo khả năng cho sự phát triển liên tục, toàn diện của trẻ em (khoản 1 Điều 98).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn (khoản 2 Điều 99).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em tạo điều kiện để trẻ em được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi (khoản 4 Điều 99).
Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm tạo môi trường an toàn, phòng ngừa trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, có nguy cơ bị xâm hại hoặc bị xâm hại (điểm a khoản 1 Điều 100).
4. Hướng dẫn kỹ năng truyền thông, phổ biến pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
Xác định vai trò quan trọng của hòa giải viên, tuyên truyền viên pháp luật, người có uy tín trong cộng đồng trong việc phổ biến thông tin, kiến thức pháp luật nhằm nâng cao nhận thức của người dân tránh tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết do đó việc hướng dẫn kỹ năng truyền thông, phổ biến pháp luật cho đội ngũ này là việc quan trọng và cần thiết, dưới đây là những hướng dẫn cụ thể
4.1. Kỹ năng thu thập thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết
4.1.1. Mục tiêu:
Việc thu thập các thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng về tảo hôn, hôn nhân cận huyết và bảo vệ trẻ em nhằm giúp người thực hiện phổ biến pháp luật:
- Nắm được những tư liệu từ thực tiễn quan trọng để có thể đưa ra các nhận định, đánh giá về tình hình tảo hôn, hôn nhân cận huyết, vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình trên địa bàn.
- Chuẩn bị kỹ lưỡng về nội dung, hình thức, phương pháp, cách thức tổ chức buổi truyền thông, PBGDPL, đặc biệt là xác định các thông điệp truyền thông đúng trọng tâm và sát thực tiễn.
- Đưa ra các ý kiến, kiến nghị với chính quyền, tổ chức có thẩm quyền trong việc tổ chức, thực hiện các giải pháp tuyên truyền, vận động người dân chấp hành Luật Hôn nhân và gia đình, từ đó giúp người dân nâng cao nhận thức, dần xóa bỏ hủ tục, thực hiện việc kết hôn theo luật định.
4.1.2. Các loại thông tin, số liệu cần thu thập
- Số lượng, tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết
- Độ tuổi tảo hôn của nam, nữ.
- Số lượng, tỷ lệ trẻ em gái đã sinh con, mang thai ở tuổi tảo hôn.
- Số lượng, tỷ lệ trẻ sinh ra bị tử vong, suy dinh dưỡng, bệnh tật do tảo hôn, hôn nhân cận huyết...- Những nguyên nhân dẫn đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
- Những khó khăn và nhu cầu cần được hỗ trợ, giúp đỡ của người dân.
- Những giải pháp mà chính quyền cơ sở đã, sẽ triển khai thực hiện để cải thiện, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
4.1.3. Cách thức thu thập thông tin, số liệu
- Báo cáo, tài liệu được cung cấp từ chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cá nhân có trách nhiệm.
- Bài viết, tài liệu đăng tải trên các website, cổng/trang thông tin điện tử; trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Nắm bắt từ thực tiễn khảo sát, phỏng vấn trực tiếp người dân, trưởng thôn, già làng, trưởng bản... tại địa bàn cơ sở.
4.2. Kỹ năng xây dựng Kế hoạch thực hiện truyền thông, phổ biến pháp luật về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết
Để buổi truyền thông, PBGDPL được tổ chức hiệu quả, người thực hiện truyền thông, PBGDPL cần có kế hoạch cụ thể. Kế hoạch được xây dựng trên cơ sở bám sát kết quả thu thập thông tin, số liệu, đánh giá thực trạng về tảo hôn, hôn nhân cận huyết của địa phương và bao gồm các nội dung, nhiệm vụ cơ bản như sau:
4.2.1. Xác định mục tiêu, yêu cầu thực hiện truyền thông, PBGDPL
- Mục tiêu thực hiện truyền thông, PBGDPL:
Nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về tảo hôn, hôn nhân cận huyết, quy định pháp luật về các quyền của trẻ em và người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm bảo vệ trẻ em khỏi kết hôn sớm; các kiến thức, hiểu biết nhằm phòng ngừa, giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết. Qua đó góp phần thay đổi hành vi, ý thức tuân theo pháp luật, từng bước xóa bỏ tảo hôn, hôn nhân cận huyết, giảm thiểu tình trạng cưỡng ép, áp đặt tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
+ Cha mẹ, phụ huynh được nâng cao nhận thức, ý thức, hiểu biết và trách nhiệm bảo vệ trẻ em khỏi kết hôn sớm, không tổ chức, cưỡng ép, áp đặt trẻ em vào tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
+ Trẻ em được nâng cao nhận thức, hiểu biết về các quyền được bảo vệ, nói lên tiếng nói của mình khi cha mẹ, gia đình quyết định việc kết hôn sớm; biết về những tác hại, hậu quả của tảo hôn, hôn nhân cận huyết để từ đó không rơi vào tình trạng này dẫn đến vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới các quyền và lợi ích của bản thân.
- Yêu cầu thực hiện truyền thông, PBGDPL:
(i) Đảm bảo cho đối tượng được truyền thông, PBGDPL tiếp thu dễ dàng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
(ii) Phù hợp với nhận thức, trình độ, nhu cầu của đối tượng được truyền thông, PBGDPL.
(ii) Tập trung vào các quy định, vấn đề, tình huống có liên quan trực tiếp đến đối tượng được truyền thông, PBGDPL.
(iii) Tìm hiểu về các phong tục, tập quán, văn hóa của địa phương, đặc thù của đối tượng.
(iv) Phù hợp với thời gian, địa điểm, nội dung hình thức tổ chức hoạt động truyền thông, PBGDPL.
4.2.2. Xác định đối tượng được truyền thông, PBGDPL
- Mục tiêu thực hiện: Giúp người truyền thông, PBGDPL lựa chọn, chuẩn bị nội dung, kỹ năng truyền tải, phổ biến pháp luật phù hợp, đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra.
- Xác định đối tượng được truyền thông, PBGDPL cần dựa trên các yếu tố:
(i) Đối tượng được truyền thông, PBGDPL là ai (cha mẹ, trẻ em, những trẻ em thuộc trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết, người dân tại cộng đồng...) và giới tính, nghề nghiệp, trình độ, nhận thức của họ;
(ii) Số lượng tham dự tập huấn, truyền thông, PBGDPL;
(iii) Tên địa bàn có bao nhiêu người thuộc trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết hoặc đang ở độ tuổi, trường hợp có nguy cơ tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
- Mỗi buổi truyền thông, PBGDPL không nên quá đông người tham gia, chỉ nên có khoảng từ 20 đến 30 người. Số lượng người tham dự nhiều sẽ khó khăn cho việc tương tác, trao đổi, thảo luận giữa người nói và người nghe cũng như khó áp dụng phương pháp tập huấn cùng tham gia.
4.2.3. Thời gian thực hiện truyền thông, PBGDPL
Người thực hiện hoạt động buổi truyền thông, phổ biến pháp luật lựa chọn thời gian phù hợp với sinh hoạt, công việc của đối tượng được truyền thông, PBGDPL. Trên cơ sở đó, người thực hiện truyền thông, PBGDPL cân đối thời lượng phù hợp với chương trình, chủ đề, phương pháp truyền thông, PBGDPL.
4.2.4. Địa điểm thực hiện truyền thông, PBGDPL
Hoạt động tập huấn, truyền thông, phổ biến pháp luật có thể được tổ chức tại nhà văn hóa, trụ sở làm việc của chính quyền, nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà của già làng, trưởng bản...
4.2.5. Chuẩn bị nội dung thực hiện buổi truyền thông, PBGDPL
Nội dung truyền thông, PBGDPL cần được chuẩn bị chu đáo, phù hợp, thiết thực với đối tượng tham dự để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của hoạt động truyền thông, PBGDPL. Các nội dung tập trung vào việc phổ biến quy định pháp luật về quyền của trẻ em, tảo hôn, hôn nhân cận huyết, tác hại của tảo hôn và hôn nhân cận huyết, các địa chỉ liên hệ để tư vấn, tìm kiếm giúp đỡ, tố giác khi quyền của trẻ em bị xâm phạm; nêu rõ những hủ tục vẫn đang còn tồn tại và vận động, giáo dục, thuyết phục người dân bỏ các hủ tục, thực hiện kết hôn theo quy định của pháp luật..., qua đó thúc đẩy tuân thủ pháp luật.
4.2.6. Đề xuất tổ chức, cá nhân cùng phối hợp, tham gia truyền thông, PBGDPL
Người truyền thông, PBGDPL có thể phối hợp với tổ chức, cá nhân khác trong việc chuẩn bị, thực hiện truyền thông, phổ biến pháp luật để tăng cường hiệu quả và chất lượng công tác này. Sự tham gia của những người có chuyên môn về y tế, giáo dục, bảo vệ trẻ em... sẽ giúp việc chuẩn bị và chia sẻ thông tin được chính xác hơn, mang tính tin cậy hơn.
4.3. Kỹ năng truyền thông, phổ biến pháp luật thông qua tập huấn tại cộng đồng
Để thực hiện truyền thông, PBGDPL đạt kết quả tốt, cùng với việc chuẩn bị chủ đề, nội dung và tài liệu thì HGVCS, TTVPL, người có uy tín trong cộng đồng cần có một số kỹ năng cơ bản cần thiết thông qua tập huấn, hòa giải tại cộng đồng, cụ thể như sau:
4.3.1. Gây thiện cảm với người được truyền thông, PBGDPL
Mục tiêu:
- Gây thiện cảm với người được truyền thông, PBGDPL
- Tạo không khí thoải mái, cởi mở giữa người truyền thông, PBGDPL và người được truyền thông, PBGDPL.
Cách thức:
- Có hoạt động khởi động để tạo không khí vui vẻ, thoải mái tập trung thu hút chú ý của người nghe.
- Bắt đầu chào hỏi, làm quen, giới thiệu bản thân. Mời một vài người tham dự giới thiệu về mình để tạo không khí thân mật.
- Nêu khái quát chủ đề, mục đích, ý nghĩa của nội dung tập huấn nhằm tạo sự chú ý của người nghe.
- Cử chỉ, phong thái thoải mái, nét mặt tươi tắn; điệu bộ, dáng vẻ thân thiện; ánh mắt luôn hướng về người tham dự.
4.3.2. Tạo ấn tượng khi thực hiện truyền thông, PBGDPL
Mục tiêu:
- Thu hút sự chú ý, quan tâm của người được truyền thông, PBGDPL.
- Thúc đẩy khả năng tiếp thu và sự tham gia của người được truyền thông, PBGDPL.
Cách thức
- Điều chỉnh giọng nói, âm lượng vừa phải, rõ ràng, đủ cho mọi người nghe được, thay đổi theo nội dung, có điểm nhấn về những nội dung quan trọng, cần phải chú ý.
- Kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để thu hút sự chú ý;
- Có thể sử dụng yếu tố hài hước như chơi chữ, kể chuyện cười, tổ chức các trò chơi làm quen cùng với người nghe... để tạo không khí thoải mái, việc truyền đạt thông điệp, nội dung pháp luật được mềm mại, nhẹ nhàng, đạt hiệu quả hơn.
- Luôn quan sát diễn biến của người nghe để điều chỉnh nội dung thuyết trình cho phù hợp.
- Di chuyển, đi lại để tạo sự gần gũi với người nghe, tuy nhiên không đi lại quá nhiều.
- Tập trung vào các nội dung trọng tâm, lựa chọn nội dung quan trọng để nhấn mạnh, kèm theo ví dụ, hình ảnh minh họa để tăng thêm hấp dẫn, lôi cuốn người nghe.
4.3.3. Thảo luận, tương tác với đối tượng được truyền thông, PBGDPL
Mục tiêu:
- Hiểu được quan điểm, chính kiến của người được truyền thông, PBGDPL, những rào cản đối với tuân thủ pháp luật.
- Giúp người được truyền thông, PBGDPL thực sự hiểu về nội dung được phổ biến.
- Thúc đẩy cam kết thay đổi hành vi của người được truyền thông, PBGDPL trong giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
- Thay đổi trạng thái giao tiếp từ độc thoại sang đối thoại.
Cách thức:
Để tương tác với người được truyền thông, PBGDPL, người thực hiện truyền thông, PBGDPL có thể đặt câu hỏi, gợi ý vấn đề và mong muốn được người tham dự bình luận, đánh giá, thảo luận. Ví dụ có thể đọc hoặc chiếu lên màn hình một ý kiến, một nhận định cho rằng hiện nay các bé gái, bé trai dậy thì sớm nên việc tảo hôn không phải là vấn đề đáng lo ngại, sau đó nêu câu hỏi để người tham dự thảo luận về nhận định này. Cũng có thể sử dụng phương pháp làm việc nhóm, thảo luận nhóm, đóng vai. Việc tương tác nên tập trung vào thay đổi nhận thức, hành vi của đối tượng truyền thông, thảo luận về vai trò, nhiệm vụ của đối tượng truyền thông trong giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết, những điều mà họ sẽ làm để thay đổi hành vi của bản thân, của người thân trong gia đình, khi chứng kiến các hành vi tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
4.3.4. Sử dụng ngôn ngữ, công cụ hỗ trợ
Mục tiêu:
- Giúp người được truyền thông, PBGDPL dễ tiếp nhận và ghi nhớ những nội dung được chuyển tải.
Cách thức
- Ngôn ngữ sử dụng trong thuyết trình, tập huấn pháp luật đảm bảo tính phổ thông, dễ hiểu, đơn giản, mạch lạc, rõ ràng; bố trí, hỗ trợ phiên dịch khi có người DTTS tham dự mà không thông thạo ngôn ngữ phổ thông hoặc có người khiếm thính tham dự cũng cần sử dụng, hỗ trợ ngôn ngữ ký hiệu.
- Sử dụng các phương tiện trực quan (bảng viết, máy chiếu, sơ đồ, hiện vật, mẫu vật...).
- Các slide trình chiếu ngắn gọn, thông điệp dễ hiểu, dễ nhớ, có hình ảnh minh họa sinh động.
- Sử dụng các phim ngắn, video truyền thông trong quá trình truyền thông, PBGDPL, hoặc phát tờ gấp, truyện tranh với các thông tin cốt lõi về giảm thiểu tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.
4.3.5. Đưa ra các thông điệp truyền thông rõ ràng về giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết
Mục tiêu
- Bảo đảm người được PBGDPL hiểu được những điều pháp luật cấm, những điều mà pháp luật cho phép.
- Người PBGDPL hiểu được vai trò của mình và những việc mình cần làm nhằm góp phần giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
Cách thức
- Đối với mỗi một nội dung, nên có những thông điệp truyền thông rõ ràng, ví dụ, kêu gọi những hành động cần làm, những hành vi bị cấm, phải chấm dứt để xóa bỏ tảo hôn và hôn nhân cận huyết.
- Có thể sử dụng thơ (được sưu tập hoặc tự sáng tác), ca dao, hò vè hoặc video ngắn để chuyển tải các thông điệp về tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
4.3.6. Kết thúc truyền thông, PBGDPL
Mục tiêu:
- Kết luận lại những nội dung cần ghi nhớ.
- Thúc đẩy cam kết thay đổi hành vi, góp phần giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.
Cách thức
- Nên kết thúc đúng thời gian theo chương trình tổ chức.
- Trước khi nói lời cảm ơn, chúc sức khỏe, chia tay người tham dự, cần dành thời gian tóm tắt nội dung đã thuyết trình, tập huấn, hòa giải, nhằm đưa ra nội dung chính rõ ràng muốn người được truyền thông, PBGDPL nhớ, hiểu và thực hiện.
- Bày tỏ mong muốn tiếp tục trao đổi qua email, điện thoại khi người tham dự có nhu cầu giải đáp, hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ các vấn đề có liên quan đến tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
HOÀNG HÀ
