5 sự thật về xu hướng sinh sản toàn cầu

Tỷ lệ sinh tổng thể ở Hoa Kỳ - ước tính số con mà một phụ nữ trung bình sẽ có trong đời, dựa trên xu hướng hiện tại - nhìn chung đã giảm trong hai thập kỷ qua. Trong bối cảnh này, chính phủ liên bang đã và đang đánh giá các biện pháp nhằm tăng tỷ lệ sinh của quốc gia.

Một y tá đang chăm sóc trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Nhi đồng và Phụ nữ MemorialCare Miller ở Long Beach, California. (Brittany Murray/MediaNews Group/Long Beach Press-Telegram qua Getty Images)

Trong bối cảnh tỷ lệ sinh giảm ở cả Hoa Kỳ và quốc tế, dưới đây là năm sự thật về xu hướng sinh sản trên toàn thế giới. Những sự thật này dựa trên phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew về dữ liệu từ Liên Hợp Quốc và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).

Chúng tôi đã thực hiện phân tích này như thế nào

Trung tâm Nghiên cứu Pew đã thực hiện phân tích này để tìm hiểu các xu hướng sinh sản trên toàn thế giới và dự kiến ​​những xu hướng này sẽ thay đổi như thế nào trong 75 năm tới. Phân tích này chủ yếu dựa trên Báo cáo Điều chỉnh Triển vọng Dân số Thế giới năm 2024 của Liên Hợp Quốc. Các liên kết đến các nguồn khác có sẵn trong bài viết.

Trong suốt phân tích này, số liệu về tỷ suất sinh năm 2025 được lấy từ dự báo của Liên Hợp Quốc. Do mức sinh trong tương lai vốn dĩ không chắc chắn, Liên Hợp Quốc sử dụng các phương pháp xác suất để tính đến kinh nghiệm trong quá khứ của một quốc gia nhất định và các quốc gia tương tự khác. Phân tích này sử dụng kịch bản "biến thể trung bình" của Liên Hợp Quốc, là giá trị trung bình của hàng ngàn mô phỏng.

Tổng tỷ suất sinh là ước tính về số con trung bình mà một nhóm phụ nữ giả định sẽ có trong suốt cuộc đời. Nó giả định rằng họ có cùng tỷ suất sinh trong suốt những năm sinh sản và không tử vong trong những năm đó. Liên Hợp Quốc thể hiện tổng tỷ suất sinh là số con trên một phụ nữ.

1. Theo ước tính của Liên Hợp Quốc, tổng tỷ suất sinh ở Hoa Kỳ là 1,6 ca sinh sống trên một phụ nữ vào năm 2025.

Tỷ suất sinh ở Hoa Kỳ được dự báo sẽ duy trì tương đối ổn định đến năm 2100

Tổng tỷ suất sinh tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Ghi chú: Tổng tỷ suất sinh là số con ước tính mà một phụ nữ trung bình sẽ có trong suốt cuộc đời của mình. Các dự báo được thể hiện là kịch bản biến thể trung bình của Liên Hợp Quốc.

Nguồn: Phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew từ Bản sửa đổi Triển vọng Dân số Thế giới năm 2024 của Bộ phận Dân số Liên Hợp Quốc.

Liên Hợp Quốc dự đoán tỷ suất sinh của Hoa Kỳ sẽ duy trì ổn định cho đến cuối thế kỷ.

Một số yếu tố nhân khẩu học dài hạn có thể đã góp phần làm giảm tỷ suất sinh ở Hoa Kỳ, bao gồm trình độ học vấn của phụ nữ tăng lên, trì hoãn việc kết hôn và giảm tỷ lệ sinh ở tuổi vị thành niên.

Theo một phân tích gần đây của Trung tâm Nghiên cứu Dân số về dữ liệu của chính phủ, người Mỹ ở độ tuổi 20 và 30 cũng đang có kế hoạch sinh ít con hơn so với một thập kỷ trước.

Hoa Kỳ không phải là quốc gia duy nhất trải qua tình trạng suy giảm sinh sản kéo dài. Ấn Độ và Trung Quốc - hai quốc gia đông dân nhất thế giới - cũng đã chứng kiến ​​mức sinh giảm trong nhiều thập kỷ. Hiện nay, tỷ lệ sinh ước tính của Trung Quốc nằm trong số những quốc gia thấp nhất toàn cầu với 1,0 ca sinh trên một phụ nữ.

2. Tổng tỷ suất sinh đã giảm ở mọi khu vực trên thế giới kể từ năm 1950. Ví dụ, tại Mỹ Latinh và Caribe, số ca sinh trung bình trên một phụ nữ đã giảm từ 5,8 vào năm 1950 xuống còn 1,8 vào năm 2025.

Tỷ suất sinh của Châu Phi được dự báo sẽ giảm vào năm 2100 nhưng vẫn duy trì cao hơn so với các khu vực khác trên thế giới

Tổng tỷ suất sinh, theo khu vực

Ghi chú: Tổng tỷ suất sinh là số con ước tính mà một phụ nữ trung bình sẽ có trong suốt cuộc đời của mình. Các dự báo được thể hiện là kịch bản biến thể trung bình của Liên Hợp Quốc.

Nguồn: Phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew từ Bản sửa đổi Triển vọng Dân số Thế giới năm 2024 của Bộ phận Dân số Liên Hợp Quốc.

Tại Châu Phi - khu vực có tỷ lệ sinh cao nhất trong lịch sử và hiện tại - tỷ lệ sinh đã giảm từ 6,5 xuống 4,0 trong giai đoạn 1950-2025.

Hiện tại, Châu Âu và Bắc Mỹ có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới, lần lượt là 1,4 và 1,6 ca sinh trên một phụ nữ. (Trong dữ liệu của Liên Hợp Quốc, Bắc Mỹ không bao gồm Mexico, mà là một phần của khu vực Mỹ Latinh-Caribê. Đọc thêm về cách Liên Hợp Quốc phân loại các khu vực.)

Đến năm 2100, Liên Hợp Quốc dự báo tỷ lệ sinh sẽ giảm từ 4,0 xuống 2,0 ở Châu Phi; từ 2,1 xuống 1,7 ở Châu Đại Dương; từ 1,9 xuống 1,7 ở Châu Á; và từ 1,8 xuống 1,6 ở Mỹ Latinh và Caribe. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh dự kiến ​​sẽ vẫn ổn định ở Bắc Mỹ và tăng nhẹ ở Châu Âu vào cuối thế kỷ này.

3. Châu Phi là khu vực duy nhất trên thế giới có tỷ lệ sinh hiện cao hơn mức sinh thay thế toàn cầu. Tỷ lệ sinh 4,0 ca sinh trên một phụ nữ của Châu Phi cao hơn đáng kể so với mức sinh thay thế khoảng 2,1 ca sinh trên một phụ nữ.

Mức sinh thay thế là gì?

Mức sinh thay thế là tổng tỷ lệ sinh cần thiết để duy trì quy mô dân số không đổi. Trên toàn cầu, con số này ước tính vào khoảng 2,1 ca sinh trên mỗi phụ nữ, mặc dù con số này thay đổi tùy theo tỷ lệ tử vong.

Tại Châu Đại Dương, tỷ lệ sinh hiện nay là 2,1, gần bằng mức sinh thay thế.

Tỷ lệ sinh hiện tại đang thấp hơn ngưỡng sinh thay thế ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh và Caribe, Bắc Mỹ và Châu Âu. Điều này có nghĩa là các thế hệ tương lai ở những khu vực này dự kiến ​​sẽ ít hơn so với hiện nay.

Ngược lại, mọi khu vực đều có tỷ lệ sinh cao hơn mức sinh thay thế vào năm 1950. Bắc Mỹ là khu vực đầu tiên có tỷ lệ sinh giảm xuống dưới mức sinh thay thế vào năm 1972. Châu Âu tiếp bước ba năm sau đó. Khu vực Mỹ Latinh-Caribe đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế vào năm 2014, và Châu Á cũng vậy vào năm 2019.

Châu Đại Dương được dự đoán sẽ giảm xuống dưới mức sinh thay thế vào năm 2028. Tuy nhiên, theo dự báo của Liên Hợp Quốc, Châu Phi sẽ không giảm xuống dưới mức sinh thay thế cho đến năm 2091.

4. Ở mọi khu vực trên thế giới, tỷ lệ sinh con của phụ nữ dưới 25 tuổi dự kiến ​​sẽ giảm vào năm 2100. Ví dụ, tại Châu Phi, tỷ lệ trẻ sơ sinh được sinh ra bởi phụ nữ dưới 25 tuổi dự kiến ​​sẽ giảm từ 41% hiện nay xuống còn 24% vào năm 2100. Tại Mỹ Latinh và Caribe, tỷ lệ này dự kiến ​​sẽ giảm từ 39% xuống còn 17%. Tại Châu Á, tỷ lệ này dự kiến ​​sẽ giảm từ 33% xuống còn 16%.

Ở mọi khu vực, tỷ lệ sinh của phụ nữ dưới 25 tuổi được dự báo sẽ giảm

Phần trăm số ca sinh theo nhóm tuổi của phụ nữ và khu vực

Các Khu vực:

* Africa (Châu Phi)

* Asia (Châu Á)

* Europe (Châu Âu)

* Latin America-Caribbean (Mỹ Latinh-Caribe)

* Northern America (Bắc Mỹ)

* Oceania (Châu Đại Dương)

Nguồn: Phân tích của Trung tâm Nghiên cứu Pew từ Bản sửa đổi Triển vọng Dân số Thế giới năm 2024 của Bộ phận Dân số Liên Hợp Quốc.

Đến năm 2100, phụ nữ dưới 25 tuổi sẽ sinh con với tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với phụ nữ từ 25 đến 34 tuổi ở mỗi khu vực. Và ở mọi khu vực, ngoại trừ Châu Phi, tỷ lệ sinh con của họ cũng sẽ thấp hơn so với phụ nữ trên 34 tuổi.

5. Một số quốc gia đã ban hành các chính sách khuyến khích người dân sinh nhiều con hơn. Những nỗ lực này bao gồm các ưu đãi tài chính, mở rộng chế độ nghỉ phép chăm sóc con cái và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng cho thấy các chính sách như vậy làm tăng tỷ lệ sinh.

Kể từ khi chính sách một con kết thúc vào năm 2016, chính phủ Trung Quốc đã tìm cách khuyến khích việc sinh con. Đầu năm nay, chính phủ đã công bố một kế hoạch quốc gia bao gồm các khoản trợ cấp trực tiếp khoảng 500 đô la cho mỗi trẻ em mỗi năm cho đến khi 3 tuổi. Chính quyền địa phương và truyền thông nhà nước cũng đã trợ cấp hoặc khuyến khích việc sinh con.

Các chính phủ Đông Á khác cũng đang thực hiện các bước để giải quyết tỷ lệ sinh thấp, bao gồm việc nới lỏng các chính sách nghỉ phép chăm sóc con cái và chăm sóc trẻ em. Theo số liệu gần đây nhất của OECD, năm 2021, Nhật Bản đã chi 2,4% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho các chương trình phúc lợi gia đình.

Ngoài ra, một số quốc gia châu Âu đã chi hơn 3,0% GDP vào năm 2021 cho các chương trình gia đình như trợ cấp trẻ em, trợ cấp chăm sóc trẻ em và giảm thuế. Ví dụ, Ba Lan đã chi khoảng 3,6% GDP cho các chương trình phúc lợi gia đình, bao gồm 2,5% cho các khoản chuyển tiền mặt liên quan đến trẻ em. Và Iceland đã chi khoảng 3,8% GDP cho khoản này - tỷ lệ cao nhất trong OECD.

Hoa Kỳ đã chi khoảng 1,0% GDP cho các loại phúc lợi này vào năm 2021, phần lớn số tiền này dành cho các dịch vụ và ưu đãi thuế.

Bài viết của Sofia Hernandez Ramones, Skylar ThomasManolo Corichi

Nguồn: https://www.pewresearch.org/

TIN KHÁC