- Tin tức - Sự kiện
- Tin tổng hợp
Các vấn đề dân số cần được giải quyết đồng bộ và toàn diện
Hoàn thiện Luật Dân số – Yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh mới
Năm 2018, sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, Bộ Y tế đã khởi động việc xây dựng dự án Luật Dân số để trình Quốc hội. Thời điểm đó, Ủy ban Về các vấn đề xã hội là cơ quan chủ trì thẩm tra và đã tổ chức nhiều hoạt động khảo sát, lấy ý kiến đóng góp. Tuy nhiên, do còn nhiều nội dung chưa đảm bảo tính rõ ràng, cụ thể và khả thi nên dự thảo luật chưa thể trình ra Quốc hội.
Gần bảy năm sau, vào tháng 2/2025, lãnh đạo Bộ Y tế cho biết đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Luật Dân số, với mục tiêu sẽ trình Quốc hội xem xét vào kỳ họp tháng 10/2025.
Với tinh thần chuyển đổi từ chính sách “kế hoạch hóa gia đình” sang “dân số và phát triển” theo Nghị quyết số 21, công tác dân số không chỉ dừng lại ở việc kiểm soát sinh mà trở thành một phần của chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Tuy vậy, thực tế đáng lo ngại là mức sinh của Việt Nam trong những năm gần đây liên tục sụt giảm, xuống dưới mức sinh thay thế. Nếu như năm 2011, mức sinh còn ở mức 2,11 con/phụ nữ thì đến năm 2022 con số này đã giảm còn 2,01, năm 2023 còn 1,96 và ước tính năm 2024 chỉ còn 1,91 con/phụ nữ, mức thấp nhất trong lịch sử. Đáng chú ý, tại khu vực thành thị, mức sinh đã duy trì ở mức thấp trong khoảng hai thập kỷ, dao động từ 1,7 đến 1,8 con/phụ nữ. Ở khu vực nông thôn – vốn có mức sinh cao hơn – thì đến năm 2023 cũng đã giảm xuống dưới mức sinh thay thế, còn 2,07 con/phụ nữ.
Mặc dù tình trạng này chưa đến mức báo động, nhưng các chuyên gia cảnh báo rằng nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời, xu hướng giảm sinh sẽ ngày càng trầm trọng. Nếu mức sinh tiếp tục sụt giảm, dự báo đến năm 2039, Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng. Sau năm 2054, dân số có thể bắt đầu tăng trưởng âm. Điều này sẽ kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng như thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, già hóa nhanh chóng và ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Trung ương đã nhiều lần khẳng định rõ trong Nghị quyết 21 rằng dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết mà còn là chiến lược lâu dài, là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn dân. Do đó, không còn nghi ngờ gì về sự cần thiết của việc ban hành một đạo luật riêng về dân số. Hơn nữa, các vấn đề dân số liên quan mật thiết đến quyền con người, quyền công dân, nên việc điều chỉnh bằng văn bản luật – thay vì pháp lệnh như hiện nay – là hoàn toàn phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Tuy nhiên, việc xây dựng dự án Luật Dân số cũng cần rút kinh nghiệm từ giai đoạn trước. Một trong những nguyên nhân khiến dự luật chưa thể trình Quốc hội vào năm 2018 là do nhiều điều khoản còn mang tính định hướng chung, thiếu cơ sở thực tiễn và chưa bảo đảm tính khả thi. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi khi đó từng khuyến nghị nên chờ kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 để có đủ dữ liệu tin cậy phục vụ cho việc hoạch định các chính sách cụ thể.
Bối cảnh mới, thuận lợi mới
Từ năm 2019 đến nay, tình hình kinh tế - xã hội trong nước và thế giới đã có nhiều biến chuyển lớn. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng đã đưa ra các chủ trương mới về chính sách dân số, trong đó có việc giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương nghiên cứu sửa đổi quy định xử lý vi phạm chính sách dân số, đồng thời điều chỉnh Hướng dẫn số 05 theo hướng không xử lý kỷ luật đối với trường hợp sinh con thứ ba trở lên. Những thay đổi này đòi hỏi các nội dung của dự thảo Luật Dân số phải bám sát tinh thần Nghị quyết số 21, giải quyết toàn diện và đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số, đặt trong mối quan hệ tương tác với phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn: ITN
Một điều kiện thuận lợi so với giai đoạn xây dựng luật trước đây là hiện nay, Việt Nam đã có cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bộ Chính trị mới đây cũng đã giao Đảng ủy Chính phủ và Đảng ủy Công an Trung ương chỉ đạo hoàn thiện việc kết nối, tích hợp dữ liệu về dân cư làm nền tảng đánh giá chính xác sự biến động về dân số. Đây là công cụ thiết yếu để xây dựng các chính sách dân số một cách hiệu quả, chính xác và phù hợp thực tiễn. Việc tận dụng tốt hệ thống dữ liệu này sẽ góp phần đảm bảo rằng dự luật Dân số không chỉ mang tính chiến lược mà còn mang tính khả thi cao, đáp ứng được yêu cầu cấp bách của công tác dân số trong tình hình mới.
HOÀNG NAM

