- Tin tức - Sự kiện
- Tin tổng hợp
Dân số Việt Nam sau 50 năm đất nước thống nhất
Năm 2025 đánh dấu 50 năm kể từ ngày đất nước thống nhất. Trong nửa thế kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong công tác dân số: từ việc kiểm soát tốc độ gia tăng dân số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đến việc bước vào giai đoạn dân số vàng. Tuy nhiên, phía trước là thách thức không nhỏ của một xã hội đang già hóa nhanh và mức sinh đang có dấu hiệu suy giảm. Từ đó, đòi hỏi những chính sách dân số linh hoạt, kịp thời và toàn diện.
Sau 50 năm đất nước thống nhất, chất lượng dân số đã được nâng cao.
Chính sách dân số: Linh hoạt và thích ứng qua từng thời kỳ
Sau ngày thống nhất đất nước (1975), dân số Việt Nam xấp xỉ 48 triệu người. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, việc kiểm soát gia tăng dân số chưa được chú trọng đúng mức. Tổng điều tra dân số năm 1979 ghi nhận mức sinh còn cao, trung bình mỗi phụ nữ sinh 4,8 con, tỷ lệ tăng dân số đạt 2,1%. Việc phát triển kinh tế chưa theo kịp tốc độ gia tăng dân số gây áp lực lớn đến an sinh, giáo dục và y tế.
Nhận thức được vấn đề, Đảng và Nhà nước đã sớm đưa công tác dân số vào chiến lược phát triển đất nước. Từ Đại hội IV đến Đại hội VII của Đảng, loạt chính sách nhằm kiềm chế tốc độ tăng dân số được ban hành. Việc vận động sinh đẻ có kế hoạch được triển khai rộng khắp trên cả nước, đặc biệt tại các khu vực đông dân và trong lực lượng lao động nhà nước, vũ trang.
Chính sách sinh đẻ có kế hoạch dần phát huy hiệu quả. Từ năm 1976 đến 1990, dân số tăng trung bình 1,13 triệu người/năm – thấp hơn giai đoạn trước. Đến năm 1990, quy mô dân số đạt 66 triệu người, tỷ lệ sinh giảm từ 33,2% (1975) xuống còn 30,04% (1992). Số con trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cũng giảm mạnh từ 5,25 xuống 3,8 con.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng bộc lộ một thực tế: công tác dân số, mặc dù có tầm quan trọng chiến lược, vẫn chưa được đầu tư đúng mức do điều kiện kinh tế đất nước còn khó khăn, khủng hoảng kéo dài.
Bước ngoặt đến vào đầu thế kỷ XXI, khi Việt Nam đạt mức sinh thay thế vào năm 2006 – nghĩa là trung bình mỗi phụ nữ sinh khoảng 2,1 con, đủ để thay thế thế hệ trước. Điều này cho thấy hiệu quả của công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình, đồng thời mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ “dân số vàng” bắt đầu từ năm 2007.
Dân số vàng – với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao nhất trong lịch sử – mang lại nhiều cơ hội phát triển: lực lượng lao động dồi dào, sức trẻ của xã hội cao, khả năng tích lũy nguồn lực cho đầu tư giáo dục, y tế, an sinh xã hội lớn hơn. Những năm qua, Việt Nam tận dụng tốt giai đoạn này để mở rộng đào tạo nghề, đầu tư giáo dục đại học, cải thiện hạ tầng y tế, tăng trưởng việc làm và cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI).
Điểm nhấn đáng chú ý là Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017 của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII. Lần đầu tiên, chính sách dân số được đặt trong tổng thể các vấn đề phát triển: quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số, gắn chặt với phát triển kinh tế, quốc phòng và an sinh. Trọng tâm không còn chỉ là giảm sinh, mà là hướng tới quản lý tổng thể dân số, chuẩn bị cho giai đoạn già hóa.
Dân số già hóa và mức sinh thấp: Thách thức lớn đang tới gần
Tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng Việt Nam đang đối mặt với xu hướng già hóa dân số ngày một nhanh. Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2036, Việt Nam có thể chính thức trở thành quốc gia có dân số già, với hơn 15 triệu người từ 65 tuổi trở lên (chiếm 14% dân số). Đến năm 2057, nhóm dân số này sẽ vượt 24 triệu người, chiếm hơn 21%, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có dân số “siêu già”.
Điều đáng lo là tốc độ già hóa của Việt Nam nhanh hơn nhiều so với các nước phát triển. Nếu Pháp mất 115 năm để tỷ lệ người già tăng từ 7% lên 14%, thì Việt Nam chỉ mất khoảng 20 năm. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ có ít thời gian để chuẩn bị cho giai đoạn dân số già – khi mà nhu cầu y tế, chăm sóc người cao tuổi, bảo hiểm xã hội và an sinh tăng mạnh.
Không chỉ già hóa nhanh, mức sinh của Việt Nam cũng đang sụt giảm rõ rệt. Năm 2023, mức sinh trung bình chỉ còn 1,96 con/phụ nữ – thấp nhất trong lịch sử – và dự báo tiếp tục giảm trong những năm tới. Đặc biệt, tại các thành phố lớn như TP.HCM, mức sinh chỉ còn xấp xỉ 1,4 con/phụ nữ – dưới mức sinh thay thế rất xa.
GS. Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và Các vấn đề xã hội, nhận định: “Khi xã hội già hóa mà mức sinh tiếp tục giảm, chúng ta sẽ rơi vào vòng xoáy thiếu lao động, tăng chi phí an sinh, suy giảm kinh tế. Trong khi đó, phần lớn người cao tuổi hiện nay sống ở nông thôn, không có lương hưu, thu nhập bấp bênh, lại mang nhiều bệnh mãn tính”.
Ứng phó với thách thức: Cần chính sách toàn diện, dài hơi
Trước bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm chuyển đổi tư duy chính sách dân số – từ “kiểm soát” sang “điều chỉnh, thích ứng” – trong đó, mục tiêu duy trì mức sinh thay thế và chăm sóc người cao tuổi phải song hành.
Để đối phó với xu hướng già hóa, các chính sách cần tập trung vào các trụ cột:
-
Khuyến khích sinh con: Nhiều chính sách mới đã được ban hành như không kỷ luật đảng viên sinh con thứ ba, miễn học phí cho con thứ hai trở lên, kéo dài thời gian nghỉ thai sản, hỗ trợ mua/thuê nhà ở xã hội... Những đề xuất này nhằm gỡ bỏ rào cản tài chính và tâm lý cho các cặp vợ chồng trẻ.
-
Hỗ trợ phụ nữ: Bảo đảm việc làm, thu nhập và cơ hội thăng tiến cho phụ nữ sau sinh là điều kiện tiên quyết để gia tăng tỷ lệ sinh. Chính sách khuyến sinh nếu không đi kèm cải thiện môi trường làm việc sẽ khó đạt hiệu quả.
-
Phát triển hệ thống an sinh cho người cao tuổi: Cần đầu tư hệ thống y tế chuyên biệt cho người già; mở rộng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội tự nguyện; tăng cường dịch vụ chăm sóc dài hạn và tạo điều kiện để người cao tuổi tiếp tục tham gia hoạt động kinh tế – xã hội.
-
Tăng năng suất lao động: Trong bối cảnh dân số trong độ tuổi lao động giảm, nâng cao năng suất là giải pháp cốt lõi. Điều này đòi hỏi phải đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới giáo dục nghề nghiệp, phát triển nhân lực chất lượng cao.
Ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế), khẳng định: “Cần ‘lo cho tuổi già từ khi còn trẻ’, thông qua việc củng cố hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao nhận thức dân số ngay trong giáo dục phổ thông và đầu tư cho công tác dân số như một chiến lược lâu dài”.
KIỀU KHANH

