- Tin tức - Sự kiện
- Tin tổng hợp
Duy trì mức sinh hợp lý, bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển bền vững
Trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác dân số, đặc biệt là việc điều chỉnh mức sinh, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, hiện nay mức sinh ở nước ta đang có nhiều biến động, vừa xuất hiện tình trạng mức sinh thấp dưới mức thay thế tại nhiều tỉnh, thành phố; vừa tồn tại mức sinh cao ở một số khu vực khó khăn. Sự chênh lệch này đặt ra thách thức lớn cho công tác hoạch định chính sách dân số trong giai đoạn mới.
Chiều 23/09/2025, tại Hội trường 3C, trụ sở 1B, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội. Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức Hội thảo khoa học “Mức sinh ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”. Hội thảo là dịp để các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách đánh giá toàn cảnh bức tranh về mức sinh hiện nay, từ đó phân tích nguyên nhân và đề xuất các giải pháp phù hợp, góp phần ổn định quy mô, cơ cấu dân số và phát triển bền vững đất nước.
.png)
Toàn cảnh Hội thảo
Tại Hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhấn mạnh, vấn đề dân số luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm trong nhiều thập kỷ qua. Nếu trước đây, nước ta phải đối mặt với tình trạng mức sinh cao thì sau nhiều năm triển khai chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã từng bước kiểm soát thành công tốc độ gia tăng dân số và duy trì được mức sinh hợp lý trong một thời gian dài.

PGS Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
Tuy nhiên, những năm gần đây, mức sinh có xu hướng giảm xuống thấp, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có mức sinh thấp trong khu vực. Sự khác biệt cũng rất rõ giữa các vùng, miền; khi nhiều địa phương phát triển kinh tế mạnh lại có mức sinh thấp, trong khi một số vùng khó khăn vẫn duy trì mức sinh cao. Tình trạng già hóa dân số nhanh, mất cân bằng giới tính khi sinh và chất lượng dân số chưa được cải thiện cũng đang đặt ra những thách thức lớn cho phát triển.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Chu Văn Tuấn, Viện trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý học cho rằng, mức sinh ở Việt Nam hiện nay đang xuất hiện nhiều vấn đề bất cập. Ở các tỉnh, thành phố lớn và khu vực phát triển, mức sinh đã giảm xuống thấp hơn mức thay thế, dẫn đến nguy cơ suy giảm quy mô dân số, thiếu hụt lực lượng lao động trong tương lai và đẩy nhanh quá trình già hóa. Ngược lại, tại các địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mức sinh vẫn duy trì ở mức cao, gây nên sự mất cân đối rõ rệt giữa các vùng, miền.
Sự khác biệt này phản ánh tính phức tạp của bài toán dân số ở nước ta. Không chỉ là vấn đề giảm sinh hay tăng sinh đơn thuần, mà còn liên quan trực tiếp tới an sinh xã hội, phát triển kinh tế và chất lượng dân số. Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, gia tăng tảo hôn và sinh con ở tuổi vị thành niên càng làm bức tranh dân số thêm nhiều thách thức.
Nêu giải pháp cho mức sinh thấp hiện nay, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học cho rằng, cần có những chính sách can thiệp linh hoạt, phù hợp với từng nhóm dân cư và từng vùng, miền. Tại những địa phương có mức sinh thấp, cần khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con thông qua các biện pháp hỗ trợ thiết thực như trợ cấp tài chính, ưu đãi về nhà ở, dịch vụ chăm sóc trẻ em, cũng như mở rộng chế độ nghỉ thai sản và tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ sau sinh. Song song với đó, phải tăng cường hệ thống dịch vụ y tế, giáo dục, đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng xã hội để giảm bớt gánh nặng chăm sóc con cái.
Việc thay đổi nhận thức xã hội về giá trị gia đình, khuyến khích nam giới chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cùng phụ nữ, tạo môi trường bình đẳng giới, từ đó giúp các gia đình yên tâm sinh con và nuôi dạy con tốt hơn. Đây là yếu tố then chốt để duy trì mức sinh ổn định và bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển lâu dài của đất nước.
Theo Tiến sĩ Hồ Ngọc Châm, Viện Xã hội học và Tâm lý học, áp lực cuộc sống hiện đại, sự gia tăng chi phí nuôi dạy con, điều kiện kinh tế chưa ổn định và thiếu hỗ trợ chăm sóc trẻ nhỏ khiến nhiều cặp vợ chồng trì hoãn hoặc hạn chế việc sinh con. Xu hướng cá nhân hóa và thay đổi quan niệm về giá trị của đứa con cũng góp phần thay đổi quan niệm truyền thống “đông con nhiều phúc”, nhiều gia đình ngày nay chú trọng hơn tới chất lượng nuôi dạy con. Đặc biệt, phụ nữ ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động xã hội, có trình độ học vấn cao và khát vọng phát triển cá nhân lớn, nên thời gian dành cho việc sinh và nuôi con bị thu hẹp cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến mức sinh duy trì thấp và có xu hướng giảm thêm trong những năm gần đây.
Trong bài trình bày của mình, ThS. Nguyễn Thanh Tùng, Cục Dân số, Bộ Y tế đã phân tích về khả năng phục hồi mức sinh của Việt Nam, theo đó để phục hồi mức sinh vẫn phải dựa trên nội tại của quốc gia. Giải pháp chính vẫn là tác động vào quá trình kết hôn, sinh con và nuôi con. Cụ thể hơn cần xây dựng thể chế, luật pháp phù hợp; xây dựng hệ thống chính sách phúc lợi gia đình càng sớm càng tốt, trước mắt cần tập trung ở các vấn đề cơ bản như: y tế, giáo dục, khắc phục các rào cản, giảm áp lực cho các cặp đôi, các cá nhân trong quá trình sinh con và nuôi con; thúc đẩy vận động xã hội; nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề sức khỏe sinh sản, đặc biệt là đối tượng vị thành niên, thanh niên. Bài tham luận cũng cho rằng việc kết hôn sẽ chạm mạnh với các giá trị xã hội về tự do cá nhân, do đó nhất thiết phải truyền thông đẩy mạnh các giá trị gia đình, trách nhiệm của cá nhân với hạnh phúc của chính mình và với cộng đồng, trách nhiệm của công dân với đất nước, dân tộc…sẽ có tác động dần dần và bền vững, tạo cơ sở nền tảng cho quá trình vận động nâng cao tỷ lệ kết hôn, sinh con.

ThS. Nguyễn Thanh Tùng trình bày tham luận tại Hội thảo
Các đại biểu tham dự Hội thảo tập trung thảo luận sâu về những nguyên nhân dẫn đến mức sinh thấp ở Việt Nam và thống nhất cho rằng, cần tiếp cận vấn đề một cách toàn diện, không chỉ ở góc độ dân số mà còn gắn với các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhiều giải pháp được đưa ra như tăng cường các chính sách hỗ trợ tài chính, nhà ở, dịch vụ chăm sóc trẻ, cải thiện điều kiện làm việc cho phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và thay đổi quan niệm xã hội về giá trị của con cái. Đồng thời, cần đẩy mạnh nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, song vẫn đảm bảo sự phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhằm duy trì mức sinh hợp lý, bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển bền vững đất nước.
Phát biểu tổng kết Hội thảo, PGS.TS. Chu Minh Tuấn đã đánh giá cao các tham luận và ý kiến trao đổi tại Hội thảo và khẳng định: 20 tham luận nhận được trong quá trình tổ chức Hội thảo và 6 tham luận được lựa chọn trình bày cùng các ý kiến trao đổi tại Hội thảo sẽ là nguồn tư liệu quý giá, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các chính sách dân số mới, đặc biệt là chính sách điều chỉnh mức sinh phù hợp với từng vùng, từng nhóm dân cư, với bối cảnh phát triển chung của đất nước, góp phần vào mục tiêu xây dựng các chính sách dân số hiệu quả, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam trong giai đoạn tới./.
HOÀNG HÀ
