- Tin tức - Sự kiện
- Tin tổng hợp
Lao động di cư tự do: Góc khuất đời sống và nỗi trăn trở an sinh
Chiếm gần 2/3 lực lượng lao động có việc làm tại Việt Nam, lao động tự do, đặc biệt là lao động di cư, là một phần không thể thiếu của nền kinh tế. Tuy nhiên, đằng sau sự năng động đó là vô vàn khó khăn, thách thức về thu nhập, điều kiện làm việc và đặc biệt là sự thiếu vắng của lưới an sinh xã hội.
Bức tranh toàn cảnh về lao động tự do
Lao động tự do, hay còn gọi là lao động phi chính thức, là một khái niệm không còn xa lạ trong bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam. Họ là những người bán hàng rong trên hè phố, những tiểu thương nơi góc chợ, những người thợ phụ hồ cần mẫn trên công trường, những bác tài xe ôm công nghệ ngược xuôi hay những người làm thuê thời vụ trong các xưởng gia công nhỏ lẻ. ThS. Chu Thị Lê Anh (Học viện Chính trị Khu vực 1) nhận định, điểm chung của họ là sự vất vả trong công việc và sự thiệt thòi khi đứng ngoài mạng lưới an sinh xã hội do thiếu vắng hợp đồng lao động.
Những con số thống kê từ Tổng cục Thống kê cho thấy quy mô đáng kể của khu vực này. Quý IV/2024, cả nước có tới 33,2 triệu lao động có việc làm phi chính thức, chiếm 63,6% tổng số lao động có việc làm. Tính trung bình cả năm 2024, con số này là 64,6%. Dù tỷ lệ này thấp hơn mức trung bình của các quốc gia thu nhập thấp (88,3%) và thu nhập trung bình thấp (81,5%), nhưng lại cao hơn đáng kể so với mức trung bình thế giới (57,8%). Điều này cho thấy, lao động phi chính thức là một bộ phận cực kỳ phổ biến và có vai trò quan trọng trong thị trường lao động Việt Nam.
Tuy nhiên, theo ThS. Chu Thị Lê Anh, đặc trưng nổi bật của công việc mà lao động tự do đảm nhận là tính chất "thiếu thỏa đáng" và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Công việc của họ thường không có hợp đồng lao động hoặc không tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH). Một điểm đáng lưu ý là lao động phi chính thức không chỉ làm việc trong khu vực phi chính thức mà còn có mặt đông đảo trong cả khu vực chính thức. Báo cáo từ Cục Thống kê cho thấy, gần 6 triệu lao động phi chính thức đang làm việc trong khu vực chính thức, chủ yếu tại các hộ sản xuất kinh doanh cá thể (47,8%) và doanh nghiệp tư nhân (36,9%).
Một gánh hàng rong trên đường Nguyễn Du, quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Quang Định.
Công việc “thiếu thỏa đáng”, rủi ro thường trực
Do tính chất công việc chủ yếu là giản đơn, ít đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật (khoảng 35,3% làm nghề giản đơn, tỷ lệ làm công việc trình độ cao chỉ khoảng 1,9%), nên thu nhập của lao động di cư thường thấp và bấp bênh. Số liệu chỉ ra, thu nhập bình quân từ công việc chính của lao động phi chính thức chỉ khoảng 4,4 triệu đồng/tháng, bằng một nửa so với lao động chính thức (8,2 triệu đồng/tháng). Nghiêm trọng hơn, có tới 45,4% người tự làm phi chính thức và 25,7% lao động phi chính thức làm công hưởng lương có thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu vùng.
Để bù đắp thu nhập, họ thường phải đánh đổi bằng thời gian và sức lực. Có đến 35,6% lao động phi chính thức làm việc quá 48 giờ/tuần và hơn 10,8% phải làm nhiều công việc cùng lúc để trang trải cuộc sống.
Điều kiện làm việc cũng là một nỗi ám ảnh. Người bán hàng rong phải "dãi nắng dầm sương", không có chỗ cố định. Người phụ hồ thường thiếu thốn trang bị bảo hộ lao động, đôi khi phải tự chuẩn bị. Ngay cả khi làm thuê trong các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, quyền lợi, phương tiện và môi trường làm việc của họ cũng không được đảm bảo do hạn chế về tài chính của chủ sử dụng lao động.
Câu chuyện của anh Phùng Ngọc Tuấn, một tài xế giao hàng công nghệ tại Hà Nội, là minh chứng cho những áp lực mà lao động tự do, đặc biệt là trong lĩnh vực vận chuyển, đang phải đối mặt hằng ngày. Anh Tuấn chia sẻ về sự bấp bênh trong thu nhập khi chính sách công ty liên tục thay đổi, lương thưởng bị cắt giảm, đặc biệt vào dịp cận Tết. "Thời gian đầu công ty tạo điều kiện kiếm được khá nhiều tiền, nhưng càng về sau, đơn hàng tuy nhiều nhưng thu nhập lại giảm," anh Tuấn nói. Mức chiết khấu thấp (1.000 đồng/đơn lấy hàng, 4.000 đồng/đơn trả hàng) cùng nguy cơ bị phạt nặng (lên đến 500.000 đồng) nếu bị khách đánh giá 1 sao vì chờ đợi lâu khiến áp lực càng thêm chồng chất.
Rủi ro tai nạn giao thông luôn rình rập trên mỗi chuyến đi, nhất là khi phải chở hàng cồng kềnh. Anh Tuấn kể, không ít lần anh phải tự bỏ tiền túi bồi thường khi xảy ra va chạm. Đáng lo ngại hơn là nguy cơ bị "ăn vạ". Anh nhớ lại vụ việc năm 2022, bị một người lạ chặn đường đòi bồi thường 5 triệu đồng vì cho rằng anh làm vỡ chai rượu quý. Dù đã đưa vụ việc ra công an, nhưng công ty không có chính sách hỗ trợ, tài xế phải "tự thân vận động".
Sức khỏe cũng là thứ bị bào mòn nhanh chóng. Việc di chuyển liên tục dưới thời tiết khắc nghiệt khiến anh Tuấn và nhiều đồng nghiệp dễ mắc bệnh, trong khi chế độ bảo hiểm, đãi ngộ từ công ty lại không đủ để họ an tâm gắn bó lâu dài.
Hướng tới giải pháp bền vững
Nhận diện được những thách thức đó, Nhà nước đã có những nỗ lực ban đầu như chính sách BHXH tự nguyện và BHYT toàn dân. Tuy nhiên, tỷ lệ tham gia của NLĐ còn rất thấp: số liệu thống kê cho thấy, có đến 97,8% lao động phi chính thức không tham gia vào bất kì một loại hình bảo hiểm nào, một tỷ lệ nhỏ (2,1%) tham gia BHXH tự nguyện và chỉ có 0,1% lao động phi chính thức có BHXH bắt buộc.
Theo Luật sư Nguyễn Xuân Anh (Văn phòng luật sư Anh và Cộng sự), việc thiếu hợp đồng lao động khiến NLĐ không được hưởng các chế độ bảo hiểm, phúc lợi theo quy định của pháp luật. Họ không được chăm sóc về sức khỏe, không được hưởng các chế độ trợ cấp khi ốm đau, tai nạn, thất nghiệp, và khi mất... Để giải quyết căn cơ vấn đề này, cần những giải pháp đồng bộ và quyết liệt hơn, cụ thể:
Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội: Luật BHXH 2024 với những sửa đổi như bổ sung chế độ thai sản vào BHXH tự nguyện, giảm thời gian đóng tối thiểu hưởng lương hưu xuống 15 năm là những bước tiến tích cực. Tuy nhiên, theo ThS. Chu Thị Lê Anh, cần nghiên cứu các phương án đóng BHXH linh hoạt hơn, phù hợp với thu nhập không ổn định của lao động tự do để tăng tính hấp dẫn và khả năng tham gia.
Thúc đẩy chính thức hóa việc làm và doanh nghiệp: Cần các chính sách hỗ trợ giảm chi phí, thủ tục cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ khi chuyển đổi sang mô hình chính thức và ký kết hợp đồng lao động. Song song đó là nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực phi chính thức.
Tăng cường hỗ trợ việc làm và nâng cao kỹ năng: Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) cần cụ thể hóa các chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ việc làm chủ động (bao gồm cả lao động không có hợp đồng), đặc biệt cho nhóm yếu thế. Quan trọng hơn, cần đẩy mạnh đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường, không chỉ là đào tạo cơ bản mà còn nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, giúp NLĐ thích ứng và cạnh tranh tốt hơn. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động hiệu quả để tăng cường kết nối cung - cầu.
Nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và xã hội: Luật sư Nguyễn Xuân Anh đề xuất, cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật lao động. Doanh nghiệp, đặc biệt là các nền tảng công nghệ sử dụng nhiều lao động tự do, cần có trách nhiệm hơn trong việc ký kết hợp đồng, đảm bảo an toàn lao động, cung cấp trang bị bảo hộ và hỗ trợ pháp lý cho NLĐ. Xã hội cũng cần có cái nhìn cảm thông, tôn trọng và chia sẻ với những khó khăn của họ.
"Đã đến lúc chúng ta cần có cái nhìn nghiêm túc hơn về những vấn đề mà NLĐ di cư tự do đang phải đối mặt. Cần chung tay xây dựng một môi trường làm việc an toàn, công bằng và văn minh hơn cho tất cả mọi người," lời kêu gọi của Luật sư Nguyễn Xuân Anh cũng chính là mong mỏi chung của xã hội.
GIA HƯNG
