Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị: nội dung trọng tâm, cốt lõi và kế hoạch hành động

Ngày 30/4/2025, Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật đã được thành lập ngay sau khi Nghị quyết được Bộ Chính trị ban hành do Đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban; Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội làm Phó trưởng Ban; các thành viên khác là Trưởng một số Ban Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng một Bộ, ngành, cơ quan, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện thành công Nghị quyết. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong tư duy và hành động đối với công tác xây dựng và thi hành pháp luật của nước ta.

A. Những nội dung trọng tâm, cốt lõi của Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, bao gồm quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp

I. Nghị quyết 66-NQ/TW chỉ rõ, để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới thì công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải quán triệt sâu sắc 05 quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành pháp luật. Quan điểm này khẳng định một nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật ở nước ta: bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải thể chế hóa kịp thời, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật. Việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dung hòa giữa yêu cầu ổn định với đổi mới, giữa đáp ứng nhu cầu thực tiễn với tuân thủ các nguyên tắc, quy luật khách quan và xu thế phát triển của thời đại. Cần phải tăng cường kiểm soát quyền lực; phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ; phòng ngừa, ngăn chặn mọi biểu hiện trục lợi, hướng lái chính sách. 

2. Phải xác định công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước; đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá của cả hệ thống chính trị. Quan điểm này nhấn mạnh sự cần thiết phải thay đổi toàn diện cả tư duy và cách thức triển khai công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đây không phải là những cải cách nhỏ lẻ, riêng biệt mà là một sự đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ, từ khâu hoạch định chính sách đến xây dựng, ban hành và tổ chức thi hành pháp luật. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá của cả hệ thống chính trị, không phải chỉ là trách nhiệm riêng của các cơ quan nhà nước. Tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức trong hệ thống chính trị đều phải vào cuộc, chung tay thực hiện nhiệm vụ này.

3. Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, “đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam”, tiếp thu có chọn lọc giá trị tinh hoa của nhân loại, đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ cho phát triển, tạo dư địa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế “hai con số” trong thời gian tới, nâng cao đời sống của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Quan điểm này đòi hỏi công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải thực sự xuất phát từ lợi ích chung của đất nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp; bảo đảm tính minh bạch, công khai, khách quan, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tiễn và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong công tác xây dựng pháp luật phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng, thực chất và khoa học các hoạt động tổng kết, khảo sát thực tiễn, đề xuất chính sách, đánh giá tác động chính sách; thực hiện nghiêm cơ chế tiếp thu, giải trình các ý kiến đóng góp; không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách, xây dựng các quy định của pháp luật.

4. Cần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với thi hành pháp luật.

5. Xác định rõ đầu tư cho công tác xây dựng chính sách, pháp luật là đầu tư cho phát triển. Nhà nước bảo đảm và ưu tiên nguồn lực và có chế độ, chính sách đặc thù, vượt trội cho công tác nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng pháp luật và đội ngũ nhân lực trực tiếp, thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ này.

Nghị quyết đặt ra mục tiêu trung hạn và dài hạn cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật, bám sát yêu cầu và mốc thời gian thực hiện 02 mục tiêu chiến lược 100 năm mà Đảng ta đã đề ra. Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi với cơ chế tổ chức thực hiện nghiêm minh, nhất quán, mở đường cho kiến tạo phát triển, huy động mọi người dân và doanh nghiệp tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội để đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Đồng thời, để bảo đảm thực hiện có lộ trình, bước đi, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm tính khả thi, Nghị quyết xác định rõ mục tiêu cụ thể cho các giai đoạn trước mắt và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI.

II. Nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế và trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu đã đề ra, Nghị quyết xác định 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung thực hiện trong thời gian tới.

Trước hết, Nghị quyết khẳng định xây dựng và thi hành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần được thực hiện dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng. Quan điểm này thể hiện qua việc yêu cầu người đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương phải trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật và chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản do mình phụ trách, đồng thời bố trí cán bộ chuyên môn pháp luật tham gia cấp ủy, lãnh đạo (từ cấp trung ương đến địa phương). Nghị quyết cũng đề cao vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và người dân, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng, thực thi pháp luật.

Một điểm nhấn quan trọng là đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật. Pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương của Đảng; xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước, ưu tiên bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Luật pháp được xác định là lợi thế cạnh tranh của đất nước, do đó Nghị quyết yêu cầu dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” – thay vào đó phải khuyến khích sáng tạo, khơi thông nguồn lực phát triển. Các quy định pháp luật cần ổn định, đơn giản, dễ hiểu, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Công tác xây dựng pháp luật được yêu cầu phải rất chủ động trong nghiên cứu chiến lược và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, nhằm tăng tính dự báo, nâng cao chất lượng chính sách.

Đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh phải hoàn thiện quy trình lập pháp minh bạch, chuyên nghiệp và công khai ý kiến đóng góp, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với các luật chủ yếu phục vụ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết yêu cầu cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ; bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dễ dàng nguồn vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao.

Để thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời thể chế hóa ngay Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, hôm qua Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân, có hiệu lực thi hành ngay.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và tổ chức xã hội được huy động tích cực tham gia giám sát thi hành pháp luật và phổ biến giáo dục pháp luật. Nghị quyết yêu cầu xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đa dạng hóa truyền thông chính sách (kể cả ứng dụng công nghệ số), chú trọng công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật và thường xuyên rà soát, hệ thống hóa pháp luật. Đồng thời, kiên quyết không “hình sự hóa” các quan hệ kinh tế, dân sự, không dùng biện pháp hành chính để giải quyết tranh chấp kinh tế, giữ vững tính công bằng và linh hoạt của luật pháp.

Nghị quyết 66-NQ/TW cũng đặt ra yêu cầu công tác thi hành pháp luật phải đột phá. Pháp luật được thực thi công bằng, nghiêm minh, nhất quán và kịp thời, luôn gắn chặt với quá trình xây dựng pháp luật. Nghị quyết yêu cầu phát huy tinh thần phục vụ nhân dân của công chức, bảo đảm quan điểm “người dân và doanh nghiệp được làm những gì luật không cấm”. Thi hành pháp luật ưu tiên thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, đồng thời chú trọng các lĩnh vực thiết yếu như an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, an ninh mạng.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 66-NQ/TW chú trọng các giải pháp đột phá về nguồn lực cho công tác pháp luật. Nghị quyết yêu cầu xây dựng chính sách đặc thù, nâng cao đãi ngộ, thu hút chuyên gia pháp lý, nhà khoa học, luật gia giỏi tham gia công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đồng thời, nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân lực pháp luật, gắn kết với đầu tư vào các viện nghiên cứu chiến lược và tổ chức nghiên cứu chính sách pháp luật. Về chuyển đổi số, Nghị quyết yêu cầu ưu tiên đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu lớn, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong soạn thảo, rà soát văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời đưa công nghệ số vào phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý. Nghị quyết đặt ra cơ chế tài chính đặc biệt: chi ngân sách cho xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển, thiết lập Quỹ Hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật minh bạch để khuyến khích xã hội hóa nguồn lực.

B. Kế hoạch hành động trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 66-NQ/TW đối với Quốc hội, Chính phủ

Trên cơ sở các nhóm nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Nghị quyết, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ đã ban hành chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW xác định toàn diện các nội dung, nhiệm vụ cần triển khai và phối hợp triển khai thực hiện, trong đó có một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

1. Thể chế hóa chủ trương của Đảng về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên quan để tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Để thực hiện cuộc cách mạng về cải cách, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, chúng ta cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều có liên quan của Hiến pháp năm 2013 và 115 luật, 09 nghị quyết của Quốc hội, gần 20 nghìn văn bản dưới luật, nghị quyết của các cơ quan Trung ương và địa phương. Tại Kỳ họp thứ 9 này, Quốc hội cũng sẽ xem xét, thông qua trên 50 luật, nghị quyết để thực hiện chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy, đột phá phát triển khoa học công nghệ, tháo gỡ các vướng mắc, điểm nghẽn để thúc đẩy phát triển kinh tê – xã hội.

2. Đề nghị Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương cụ thể hóa, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Như đã báo cáo với các đồng chí, nhiều chủ trương trong Nghị quyết số 66-NQ/TW được thể chế hóa tại Nghị quyết của Quốc hội là chính sách mới, đột phá, khác với quy định hiện hành của pháp luật, nhưng là rất cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh cần khẩn trương, tập trung tháo gỡ các vướng mắc có nguyên nhân từ quy định pháp luật, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm nền tảng pháp lý đáp ứng yêu cầu phát triển “bứt tốc” của đất nước để bước vào kỷ nguyên mới. Nghị quyết của Quốc hội đã quán triệt và bám sát nội dung, yêu cầu của Nghị quyết số 66-NQ/TW, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2025 đồng bộ với Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và các luật, nghị quyết khác sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 9, sẽ là bước đột phá mạnh mẽ để đưa thể chế, pháp luật thực sự trở thành lợi thế cạnh tranh quốc gia và động lực phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

3. Xây dựng, sớm hoàn thành việc ban hành các luật và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật trong các lĩnh vực cần thiết khác, đáp ứng yêu cầu thực tiễn; trong đó, tập trung vào các ưu tiên sau:

- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền triệt để gắn với xác định rõ trách nhiệm, điều kiện bảo đảm thực hiện và cơ chế kiểm tra, giám sát; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương và giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh và cấp xã. Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng, minh bạch, an toàn, chi phí tuân thủ thấp; triệt để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư, kinh doanh, hành nghề, thủ tục hành chính bất hợp lý; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đã đề ra. Bảo đảm thực chất quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền tự do hợp đồng, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tại Kỳ họp thứ 9 này tập trung sửa đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng; trong thời gian tới, tiếp tục xây dựng, ban hành, triển khai các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí; nghiên cứu, triển khai các mô hình mới để đưa nước ta trở thành trung tâm logistics lớn, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số; nghiên cứu xây dựng dự án Luật Chống lãng phí để kịp thời khắc phục, xử lý nghiêm minh những hành vi lãng phí nhằm tận dụng, khai thác các nguồn lực cho phát triển.

- Phát triển kinh tế tư nhân theo chủ trương của Đảng đã được xác định cụ thể tại Nghị quyết số 68-NQ/TW. Tại Kỳ họp thứ 9, trên cơ sở đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân để kịp thời đưa chủ trương, quyết sách lớn của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân sớm đi vào cuộc sống; tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Hải quan và một số dự án luật có liên quan khác.

- Tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, phi truyền thống (trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khai thác nguồn lực dữ liệu, tài sản mã hóa...) để hình thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới. Xây dựng cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội, cạnh tranh cho trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do, khu kinh tế trọng điểm... Tại Kỳ họp thứ 9 này, Đảng ủy Quốc hội phối hợp với Đảng ủy Chính phủ tập trung lãnh đạo chuẩn bị một số dự án luật quan trọng thuộc lĩnh vực này trình Quốc hội xem xét, thông qua, như Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Năng lượng nguyên tử và một số luật khác có liên quan.

- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng cải cách tư pháp. Nghiên cứu mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục tố tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; có giải pháp khuyến khích, phát triển các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án như trọng tài thương mại, hòa giải thương mại... Tại Kỳ họp thứ 9 này, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua, xem xét cho ý kiến một số đạo luật quan trọng thuộc lĩnh vực này, như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, của Viện Kiểm sát nhân dân, các luật về tố tụng tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự; dự án Luật Dẫn độ, Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự…

4. Thực hiện đổi mới tư duy lập pháp, trong xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện các dự thảo luật trình Quốc hội biểu quyết thông qua, Đảng ủy Quốc hội phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan có liên quan chú trọng bảo đảm nguyên tắc một số bộ luật, luật quy định về quyền con người, quyền công dân, tố tụng tư pháp thì cần cụ thể, về cơ bản các luật khác, nhất là luật điều chỉnh các nội dung về kiến tạo phát triển chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội, còn những vấn đề thực tiễn thường xuyên biến động thì giao Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt, phù hợp với thực tiễn nhằm bảo đảm để các quy định của luật có tính ổn định, đơn giản, dễ thực hiện. Đồng thời, chú trọng bảo đảm để các quy định của luật phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và xây dựng pháp luật; công tác xây dựng pháp luật phải xuất phát từ lợi ích toàn cục của đất nước, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”; phát huy dân chủ, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân.

5. Trong năm 2025, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và các cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện tổng kết việc thực hiện Định hướng chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, đánh giá kỹ kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; đồng thời, bám sát văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, các nhiệm vụ trọng tâm, định hướng phát triển đất nước để xây dựng Định hướng chương trình lập pháp cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI, làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình lập pháp hằng năm để các Bộ, ngành, cơ quan trung trung và cả chính quyền địa phương chủ động triển khai các nhiệm vụ lập pháp.

 

TIN KHÁC