- Tin tức - Sự kiện
- Tin tổng hợp
Thực trạng đăng ký kết hôn và các chỉ tiêu thống kê hôn nhân
1.ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Đăng ký kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hộ tịch và Luật Hôn nhân và Gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn không chỉ mang ý nghĩa pháp lý mà còn giúp bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trong quan hệ hôn nhân, đặc biệt là khi có vấn đề liên quan đến tài sản, con cái hay quyền thừa kế.
Đăng ký kết hôn được quy định tại Luật Hộ tịch; Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28 tháng 5 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Theo đó: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Hôn nhân được thành lập trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, bình đẳng giữa hai bên và phải tuân thủ độ tuổi kết hôn quy định, nam từ đủ 20 tuổi và nữ từ đủ 18 tuổi. Nhà nước Việt Nam không công nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch”.
Thông tin về đăng ký kết hôn ghi nhận trong cơ sở dữ liệu hộ tịch là thông tin về các cuộc hôn nhân được đăng ký chính thức từ ngày 01/01/2021 đến 31/12/2023. Ngoài hôn nhân hợp pháp, các hình thức chung sống đồng thuận khác không được đăng ký trong hệ thống CRVS của Việt Nam, do đó không được phân tích trong phần này.
Đăng ký kết hôn
Theo dữ liệu đăng ký kết hôn, từ năm 2021 đến năm 2023, toàn quốc có hơn 2 triệu trường hợp (cuộc) đăng ký kết hôn được ghi nhận trong cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử. Trong đó, năm 2021 có gần 522,3 nghìn trường hợp, năm 2022 có 772,4 nghìn trường hợp, năm 2023 có 734,9 nghìn trường hợp. Như vậy, số trường hợp kết hôn năm 2021 thấp nhất, chỉ bằng 2 phần ba số trường hợp được đăng ký trong năm 2022 và 2023, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 xảy ra trong năm 2020 và 2021.
Trong tổng số hơn 2,2 triệu trường hợp đăng ký kết hôn từ năm 2021 đến năm 2023, có khoảng gần 140 nghìn trường hợp đăng ký kết hôn lại, chiếm khoảng 6,3%.8
Hình 1: Số trường hợp đăng ký kết hôn và số trường hợp đăng ký kết hôn lại giai đoạn 2021 - 2023
Hình 1 dưới đây mô tả số cuộc đăng ký kết hôn của 12 tháng trong các năm 2021, 2022, 2023. Các dữ kiện trên đồ thị cho thấy, trong giai đoạn từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2021, giai đoạn đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh nhất ở Việt Nam, số cuộc đăng ký kết hôn trên toàn quốc giảm mạnh. Trong tháng 3 năm 2021, số cuộc kết hôn đăng ký là gần 70 nghìn cuộc, giảm xuống còn 55,4 nghìn cuộc vào tháng 4 và liên tục giảm xuống đến mức thấp nhất là 13,8 nghìn cuộc trong tháng 8 rồi sau đó mới bắt đầu tăng trở lại vào tháng 9, khi đại dịch Covid-19 bắt đầu được kiểm soát và đẩy lùi. Năm 2022 và 2023, do không chịu nhiều tác động của đại dịch Covid-19 nên số trường hợp đăng ký kết hôn giữa các tháng trong 2 năm này không có nhiều biến động. Số cuộc đăng ký kết hôn mỗi tháng trong 2 năm này là khoảng từ 55 đến 70 nghìn cuộc.
8 Đăng ký kết hôn lại là trường hợp đã đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01/01/2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất và cả 2 người vẫn duy trì quan hệ hôn nhân.
Hình 2: Số cuộc kết hôn của các năm 2021, 2022, 2023 theo tháng
Tỷ suất kết hôn đặc trưng theo nhóm tuổi
Tỷ suất kết hôn đặc trưng theo nhóm tuổi (Age-Specific Marriage Rate - ASMR) là một chỉ tiêu đo lường mức độ kết hôn của một nhóm dân số ở một độ tuổi cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Đồ thị về tỷ suất kết hôn đặc trưng theo nhóm tuổi của hai giới trên Hình 5.3 cho thấy nữ giới có xu hướng kết hôn sớm hơn nam giới, tỷ suất kết hôn của nữ giới đạt mức cao nhất ở nhóm từ 20 đến 24 tuổi; nam giới đạt mức này ở nhóm từ 25 đến 29 tuổi. Phần đông dân số Việt Nam kết hôn ở độ tuổi từ 20 đến 30 tuổi. Sau 30 tuổi, tỷ suất kết hôn ở cả 2 giới giảm mạnh nhưng mức giảm ở phụ nữ nhanh hơn ở nam giới. Từ sau 45 tuổi, tỷ suất kết hôn ở hai giới không khác biệt nhiều và duy trì ở mức thấp.
Hình 3: Tỷ suất kết hôn đặc trưng theo nhóm tuổi của hai giới giai đoạn 2021 - 2023
Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu
Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu là độ tuổi trung bình của những người kết hôn lần đầu trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Dữ liệu để tính tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu là hồ sơ đăng ký kết hôn.
Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu khác tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM). Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu là độ tuổi trung bình của những người thực sự kết hôn lần đầu trong một khoảng thời gian nhất định, không tính đến những người chưa kết hôn hoặc sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Trong khi đó, SMAM là độ tuổi trung bình khi kết hôn lần đầu ước lượng cho toàn bộ dân số, bao gồm cả những người chưa kết hôn. SMAM được tính toán từ cấu trúc dân số theo tình trạng người chưa kết hôn trong các nhóm tuổi khác nhau.
Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu thường được sử dụng để đánh giá xu hướng đăng ký kết hôn chính thức, còn SMAM được sử dụng để phân tích các yếu tố liên quan đến nhân khẩu học dựa trên cấu trúc hôn nhân của dân số.
Theo kết quả tính toán từ hồ sơ đăng ký kết hôn, tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu giai đoạn 2021 - 2023 của nam giới ở Việt Nam cao hơn nữ giới khoảng gần 3 tuổi, tương ứng là 29,8 tuổi đối với nam và 27,0 tuổi đối với nữ.
Từ năm 2021 đến năm 2023, tuổi trung bình khi kết hôn lần đầu của cả hai giới đều có xu hướng tăng, mức tăng bình quân sau 3 năm là 1,1 tuổi.
Hình 4: Tuổi trung bình khi đăng ký kết hôn lần đầu
Chênh lệch tuổi khi đăng ký kết hôn
Hình 5 dưới đây trình bày mô hình phân bố mức độ chênh lệch tuổi khi đăng ký kết hôn của các cặp vợ chồng. Mô hình phân bố này có đỉnh ở mức 0 có nghĩa là, số cặp vợ chồng kết hôn bằng tuổi chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong số các cặp đôi đăng ký kết hôn. Ngoài ra, mô hình có phân bố lệch sang bên phải cho thấy ở các cặp đôi, đa phần người chồng có tuổi lớn tuổi người vợ (hơn 72%) và mức chênh lệch từ 1 đến 4 tuổi chiếm khoảng hơn 43%. Tỷ trọng các cặp đôi mà vợ lớn tuổi hơn chồng chỉ chiếm khoảng 16%. Trong 3 năm, từ 2021 đến 2023, mô hình phân bố mức chênh lệch trong tuổi kết hôn giữa các cặp đôi gần như không thay đổi.
Hình 5: Cơ cấu tỷ trọng kết hôn theo độ tuổi chênh lệch
2.KẾT HÔN VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Đăng ký kết hôn với người nước ngoài
Đăng ký kết hôn với người nước ngoài là thủ tục pháp lý để công nhận quan hệ hôn nhân giữa một công dân Việt Nam và một công dân nước ngoài (hoặc giữa hai người nước ngoài thường trú tại Việt Nam). Thủ tục này được thực hiện theo quy định của Luật Hộ tịch, Luật Hôn nhân và Gia đình và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Theo dữ liệu đăng ký kết hôn, vấn đề kết hôn với người nước ngoài vẫn chưa phổ biến ở Việt Nam. Trong giai đoạn 2021 - 2023, số cuộc đăng ký kết hôn mới có yếu tố nước ngoài chỉ chiếm tỷ trọng 1,9%. Tuy nhiên, từ năm 2021 đến nay, xu hướng kết hôn với người nước ngoài đang tăng mạnh cả về số lượng và tỷ lệ.
Năm 2021, cả nước chỉ có hơn 2 nghìn cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài, chiếm khoảng 0,5% tổng số cuộc kết hôn trong cả nước. Năm 2022, số cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài là gần 14 nghìn cuộc, chiếm tỷ trọng 1,9%. Con số này năm 2023 tăng lên 19 nghìn cuộc, chiếm tỷ trọng 2,8%.
Chiếm chủ yếu trong các cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài là số trường hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, khoảng 89,1%. Số trường hợp nam giới Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chỉ chiếm 10,5%. Trường hợp người nước ngoài thường trú ở Việt Nam đăng ký kết hôn với người nước ngoài khác có số lượng và tỷ trọng không đáng kể.
Hình 6: Tỷ lệ kết hôn có yếu tố nước ngoài giai đoạn 2021 - 2023
Quốc tịch của người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam
Phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài thì chủ yếu là kết hôn với những người có quốc tịch Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc đại lục, Hàn Quốc và Hoa Kỳ, chiếm 77,0%. Trong đó, tỷ trọng kết hôn với người Đài Loan (Trung Quốc) đạt cao nhất, 21,4%, tiếp theo là Hoa Kỳ, 19,9%; Hàn Quốc, 18,1% và Trung Quốc, 17,6%.
Cơ cấu quốc tịch của phụ nữ nước ngoài kết hôn với nam giới Việt Nam khác cơ cấu quốc tịch của nam giới nước ngoài kết hôn với phụ nữ Việt Nam. Theo đó, đa phần những người phụ nữ nước ngoài kết hôn với nam giới Việt Nam có quốc tịch Đài Loan (Trung Quốc), 41,1% và Hoa Kỳ, 33,2%. Tỷ trọng những người phụ nữ có quốc tịch Hàn Quốc và Trung Quốc kết hôn với nam giới Việt Nam là không đáng kể.
Hình 7: Cơ cấu quốc tịch của người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam
Cơ cấu phân bố tuổi của người Việt Nam khi đăng ký kết hôn với người nước ngoài
Những người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đều có xu hướng kết hôn muộn hơn so với các cặp đôi khác. Thực tế này quan sát được ở cả hai giới, nam và nữ.
Ở nữ giới, tỷ trọng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người Việt Nam đạt cao nhất ở nhóm 20-24 tuổi, với 33,4%; tiếp theo là nhóm 25-29 tuổi, với 27,2% và giảm mạnh từ nhóm 30-34 trở đi. Đối với nhóm phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, tỷ trọng cao nhất quan sát được ở nhóm 25-29 tuổi, với 24,2%; tiếp đến là nhóm 30-34 tuổi và nhóm 20-24 tuổi với 20,0% và 18,5%. Từ sau độ tuổi 35, tỷ trọng phụ nữ kết hôn với người nước ngoài cũng giảm nhưng mức giảm không nhiều như đối với nhóm phụ nữ kết hôn với người Việt Nam.
Trong khi đó, trong nhóm kết hôn không có yếu tố nước ngoài, nam giới Việt Nam bắt đầu kết hôn ở độ tuổi từ 20-24 với tỷ trọng khá cao, 26,3% và tăng mạnh đến 35,7% đối với nhóm 25-29 tuổi. Sau độ tuổi này, tỷ trọng nam giới kết hôn cũng giảm mạnh, xuống còn 18,6% với nhóm 30-34 tuổi và tiếp tục giảm ở nhóm độ tuổi lớn hơn. Đối với những nam giới kết hôn với người nước ngoài, độ tuổi có số người kết hôn nhiều nhất là nhóm 30-34 tuổi với 19,0%, tiếp đến là nhóm 35-39 tuổi với 17,0% và nhóm 40-44 tuổi với 15,3%. Từ 45 tuổi trở lên, tỷ trọng nam giới kết hôn với người nước ngoài có giảm nhưng mức giảm cũng không mạnh như ở nam giới kết hôn với người Việt Nam.
Hình 8: Cơ cấu phân bố tuổi của người Việt Nam khi đăng ký kết hôn (%)
Có sự khác biệt đáng kể về phân bố cơ cấu tuổi khi kết hôn của phụ nữ Việt Nam theo quốc tịch của người chồng. Những phụ nữ kết hôn với người Hàn Quốc hoặc Trung Quốc có độ tuổi khá trẻ. Hơn 70% có độ tuổi dưới 30 và khoảng hơn 14% có độ tuổi từ 15 đến 19 tuổi.
Trong khi đó, phụ nữ kết hôn với người Hoa Kỳ và người Đài Loan có độ tuổi cao hơn. Đặc biệt là nhóm phụ nữ kết hôn với người Hoa Kỳ. Ở nhóm này, số phụ nữ kết hôn ở độ tuổi rất trẻ, dưới 20 tuổi chiếm tỷ trong rất nhỏ, 2,1%. Phần đông phụ nữ kết hôn với người Hoa Kỳ có độ tuổi từ 25 đến 39 tuổi, 59,7%. Sau 40 tuổi, tỷ trọng phụ nữ kết hôn với người Hoa Kỳ có giảm nhưng vẫn cao hơn nhiều so với tỷ trọng này của nhóm phụ nữ kết hôn với người Hàn Quốc hoặc Trung Quốc, 25,3% so với 4,1% của Hàn Quốc và 3,7% của Trung Quốc.
Hình 9: Cơ cấu phân bố tuổi của phụ nữ Việt Nam theo quốc tịch của người chồng (%)
3. KẾT LUẬN
Báo cáo quốc gia về đăng ký và thống kê hộ tịch là báo cáo phân tích, tính toán dựa trên dữ liệu hành chính về đăng ký hộ tịch. Báo cáo đã thực hiện một số kỹ thuật để đánh giá chất lượng dữ liệu, sau đó dựa trên nguồn dữ liệu này để nghiên cứu biên soạn các chỉ tiêu thống kê liên quan đến mức sinh, mức chết, hôn nhân và trên cơ sở đó thực hiện một số phân tích thống kê nhằm mục tiêu cung cấp cho người dùng tin bức tranh khái quát về thực trạng đăng ký và thống kê hộ tịch ở Việt Nam.
Các nghiên cứu và phân tích từ báo cáo cho thấy dữ liệu hộ tịch điện tử là nguồn dữ liệu có chất lượng với phạm vi bao phủ gần như đầy đủ, được cập nhật theo đúng thực tế phát sinh nên phục vụ rất hiệu quả cho công tác thống kê và các nghiên cứu phân tích định hướng chính sách.
So sánh với kết quả từ các cuộc điều tra dân số, kết quả thống kê dựa trên dữ liệu hộ tịch cho thấy mức độ tương đồng cao ở cấp toàn quốc đối với nhiều chỉ tiêu quan trọng trong lĩnh vực sinh, chết và hôn nhân. Điều này mở ra khả năng nghiên cứu và đánh giá việc sử dụng dữ liệu hộ tịch như một phương án thay thế cho các cuộc điều tra biến động dân số, giúp tiết kiệm ngân sách nhà nước trong dài hạn.

